Giáo dục – Tinh hoa Công nghệ https://tinhhoacongnghe.com Sun, 08 Oct 2023 14:13:31 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.6.2 Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng https://0222801001.com.tw/phan-tich-kho-2-bai-tho-tay-tien-cua-quang-dung/ Sun, 08 Oct 2023 14:13:10 +0000 https://0222801001.com.tw/?p=6154 Phân tích khổ 2 Tây Tiến của Quang Dũng tuyển chọn 2 dàn ý chi tiết kèm theo những mẫu cực hay, giúp cho các em học sinh tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng về văn phân tích đánh giá đoạn thơ ngày một tốt hơn.

TOP những mẫu phân tích đoạn 2 Tây Tiến cực chất gồm cả bài làm ngắn gọn và đầy đủ để các bạn tham khảo, lựa chọn theo sức viết của mình, giúp các bạn học môn Ngữ văn dễ dàng và có sự chuẩn bị tốt hơn khi học. Ngoài ra để học tốt môn Văn các bạn xem thêm mở bài Tây Tiến , kết bài Tây Tiến, phân tích đoạn 1 Tây Tiến.

Dàn ý phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến

Dàn ý số 1

I. Mở bài:

– Giới thiệu đôi nét về tác giả Quang Dũng và tác phẩm Tây Tiến

– Khổ 2 Tây Tiến thể hiện một thế giới lãng mạn và trữ tình ở vùng Tây Bắc với những kỉ niệm đẹp.

– Trích thơ:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
……
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

II. Thân bài:

* Tổng

– Sơ lược về đoàn quân Tây Tiến

– Đôi nét về tác phẩm Tây Tiến

* Phân tích

– Hai câu thơ đầu:

  • “Doanh trại”: nơi sống và làm việc của bộ đội, khô khan, nghiêm khắc
  • Động từ “bừng”: ánh sáng mạnh mẽ, rực rỡ
  • “Hội đuốc hoa”: mang màu sắc tình yêu (từ chữ Hán có nghĩa là hoa chúc) vừa duyên dáng, vừa rạng rỡ
  • “Kìa em”: Ngỡ ngàng, kinh ngạc, trìu mến
  • “Xiêm áo”: Trang phục đẹp đẽ, xinh xắn

– Hai câu thơ sau:

  • “Khèn”: nhạc cụ mang bản sắc riêng của Tây Bắc
  • “Man điệu”: điệu nhạc, điệu múa mang âm hưởng Tây Bắc
  • “E ấp”: sự ngại ngùng, thẹn thùng của các thiếu nữ dân tộc
  • “Xây hồn thơ”: vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của tâm hồn người chiến sĩ

– Bốn câu thơ tiếp theo

  • Chiều sương”: hình ảnh lãng mạn, nhẹ nhàng, thơ mộng khác với sự hùng vĩ dữ dội ở đầu bài
  • “Ấy”: đại từ khiến hình ảnh buổi chiều sương trở nên đặc biệt
  • “Hồn lau”: Tả dáng lau qua màn sương, đồng thời đem lại linh hồn cho cây cỏ
  • “Nẻo bến bờ”: Nẻo- hướng đi, lối đi. Đi đâu cũng thấy mênh mông, bao la
  • Điệp ngữ: “Có thấy-có nhớ” thể hiện nỗi lưu luyến, nhớ nhung da diết
  • “Dáng người trên độc mộc”: Dáng vẻ uyển chuyển, thướt tha với sự làm duyên của cánh hoa đong đưa theo dòng nước lũ.
  • “Dòng nước lũ – hoa đong đưa”: Hình ảnh tưởng chừng đối lập mà hài hòa nên thơ

→ Bút pháp gợi mà không tả

* Hợp

  • Ngòi bút tài hoa, tinh tế nhưng không kém phần lãng mạn, trữ tình của Quang Dũng
  • Tình cảm của tác giả dành cho thiên nhiên và con người Tây Bắc cùng với các kỉ niệm đẹp.

III. Kết bài:

– Suy nghĩ, tình cảm của em Quang Dũng và tác phẩm Tây Tiến .

Dàn ý số 2

1. Mở bài

– Giới thiệu đôi nét về tác giả Quang Dũng cũng như bài thơ Tây Tiến.

– Đề cập khổ 2 trong bài thơ thể hiện tình cảm quân dân trong cuộc chiến tranh chống Pháp cũng như vẻ đẹp của núi rừng sông nước miền Tây.

2. Thân bài

– Những nét chính về nhà thơ Quang Dũng và hoàn cảnh ra đời tác phẩm Tây Tiến.

– Cảm nhận đêm liên hoan và sự hòa quyện tinh tế giữa người em Tây Tiến và vẻ đẹp của núi rừng.

– Tìm hiểu khung cảnh huyền ảo thơ mộng của vùng sông nước nơi đây.

3. Kết bài

– Khái quát ngắn gọn giá trị của bài thơ, đặc biệt vẻ đẹp của khổ 2 bài thơ.

– Bày tỏ suy nghĩ của bản thân khi cảm nhận và phân tích khổ 2 bài Tây Tiến.

Như vậy, chất thơ mộng, chất nhạc, chất họa đã hòa quyện tinh tế trong vẻ đẹp của khung cảnh thiên nhiên và con người miền Tây. Có thể thấy đoạn thơ đã bộc lộ rõ nét sự tài hoa trong ngòi bút của Quang Dũng cũng như tâm hồn nghệ thuật độc đáo của nhà thơ.

Sơ đồ tư duy Tây Tiến khổ 2

Phân tích đoạn 2 Tây Tiến hay nhất

Ra đời năm 1948, cùng với “Nhớ” của Hồng Nguyên, “Đồng chí” của Chính Hữu, “Tình sông núi” của Trần Mai Ninh, “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm, bài thơ “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng đã tạo nên bộ “ngũ tư bất tử” trong thơ ca thời kháng chiến chống Pháp. Nỗi nhớ về cảnh và người nơi núi rừng Tây Bắc, nhớ về những người đồng đội từng vào sinh ra tử đã trở thành mạch nguồn cảm hứng để Quang Dũng cho ra đời thi phẩm Tây Tiến gây xúc động lòng người. Bài thơ là tiếng lòng thổn thức, chơi vơi mà Quang Dũng gửi lại mảnh đất miền Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến. Men theo nỗi nhớ thương ấy, vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên miền Tây rất đỗi thơ mộng, con người miền Tây khỏe khoắn, kiên cường đã được khắc họa thật đậm nét qua những vần thơ giàu sức gợi cảm:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.

Quang Dũng là một người nghệ sĩ đa tài, ông có thể viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc, trong đó ông đặc biệt thành công trong lĩnh vực sáng tác thơ văn. Với hồn thơ lãng mạn, phóng khoáng Quang Dũng đã mang đến cho thơ văn kháng chiến một màu sắc mới mẻ, độc đáo, đặc biệt là trong hình tượng người lính: vừa kiên cường dũng cảm vừa hào hoa phong nhã. Có thể thấy rõ những nét mới mẻ này qua bài thơ được coi là kiệt tác thơ văn của Quang Dũng – Tây Tiến. Bài thơ được sáng tác năm 1948 khi Quang Dũng chia tay với đồng đội, binh đoàn Tây Tiến để chuyển đến đơn vị công tác mới. Qua bài thơ, Quang Dũng không chỉ thể hiện nỗi nhớ, tình cảm gắn bó với những người đồng đội và vùng đất Tây Bắc mà còn dựng lên đầy sống động chân dung những người lính Tây Tiến vừa kiêu dũng, ngoan cường vừa tài hoa lãng mạn.

 

 

Tây Tiến là một đơn vị bộ đội được thành lập vào mùa xuân năm 1947, gồm phần đông là những chàng trai trẻ của đất Hà thành, hào hoa, thanh lịch: “Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng – Hồn mười phương phất cờ đỏ thắm” nên tâm hồn họ lãng mạn, bay bổng, nhiều mộng và cũng lắm mơ. Họ ra đi chiến đấu mang trong mình lí tưởng cao cả: quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Địa bàn hoạt động của đoàn binh Tây Tiến là một khu vực rộng khắp kéo dài từ Mai Châu – Hòa Bình cho đến tận Thanh Hóa, kéo sang cả Sầm Nưa của Lào. Đó là vùng địa hình đồi núi phía Tây Bắc hiểm trở của tổ quốc. Nơi rừng thiêng, nước độc, nơi thâm sơn cùng cốc với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt. Họ có nhiệm vụ chiến đấu, bảo vệ vùng biên giới phía Tây Bắc của tổ quốc, kết hợp cùng với bộ đội Pathết Lào đánh tiêu hao sinh lực địch. Cuộc sống chiến đấu vô cùng thiếu thốn, khó khăn gian khổ, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt. Chính vì thế mà những người lính Tây Tiến hi sinh vì mũi tên hòn đạn thì ít mà vì ốm đau, bệnh tật thì nhiều. Chỉ sau một năm chiến đấu, binh đoàn Tây Tiến đã hi sinh gần hết, đơn vị tan rã, đại đội trưởng Quang Dũng được chuyển sang một đơn vị khác và Tây Tiến sát nhập vào Trung đoàn 52. Một lần, ngồi bên dòng sông Đáy hiền hòa thuộc tỉnh Hà Đông cũ, kỉ niệm, kí ức về những tháng năm gắn bó cùng đồng đội thân yêu, vào sinh ra tử lại ùa về. Tây Tiến được viết lên trong nỗi nhớ trào dâng, da diết Quang Dũng gửi đến cho đất và người trọn vẹn một tình yêu. Bài thơ mới ra đời nó có tên là “Nhớ Tây Tiến”. Nhưng có lẽ sau này Quang Dũng hiểu rằng, thơ là “ý tại ngôn ngoại”, không nói nhớ mà nỗi nhớ cứ như sóng trào dâng qua từng lời, từng câu, từng chữ, từng nhịp thơ, đấy mới là cái tài hoa của người nghệ sĩ. Nhan đề đã được tinh giản chỉ còn “Tây Tiến” mà nỗi nhớ vẫn chơi vơi, như mạch ngầm và là nguồn cảm hứng của cả bài. Bài thơ được in trong tập “Mây đầu ô” xuất bản năm 1948.

Cả đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên diễm lệ có sự hòa hợp diệu kỳ giữa thiên nhiên và con người. Cảnh trí miền Tây dường như được tạo hình theo thi pháp truyền thống đậm chất Đường thi: “Thi trung hữu hoạ, thi trung hữu nhạc”. Một miền Tây thơ mộng, thi vị, ấm áp giàu sức cuốn hút.

Bốn câu đầu gợi nỗi nhớ cảnh đêm liên hoan rực rỡ, lung linh, chung vui với bản làng xứ lạ:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Khung cảnh của đêm liên hoan lửa trại được nhà thơ gọi theo cách riêng của mình là hội đuốc hoa thật tưng bừng, náo nhiệt và rộn rã. Không còn cái khúc khuỷu, thăm thẳm của đèo cao, vực sâu, không còn cái oai linh gầm thét của rừng thiêng xứ lạ nữa. Bừng lên là bừng tỉnh, bừng sáng, tưng bừng. “Bừng lên” vừa chỉ được ánh sáng phát ra đột ngột, bất ngờ vừa gợi sự thú vị. Cả cảnh vật và lòng người đều bừng sáng lên. Chất hào hoa trong bút pháp thể hiện của Quang Dũng đã bộc lộ ngay từ câu thơ đầu. Từ “bừng” làm sống dậy cả một đêm liên hoan văn nghệ, làm bừng sáng và rộn ràng cả đoạn thơ. Chính vì thế có thể coi nó là nhãn tự, là chữ có thần.

Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra giữa lòng núi rừng đại ngàn của miền Tây nên cần phải có lửa đuốc để soi sáng. Người đến xem và những chàng lính trẻ cầm trên tay bó đuốc là những thanh nứa, thanh tre đập dập. Khi đêm liên hoan văn nghệ diễn ra cũng là lúc ánh sáng của lửa đuốc bừng lên soi tỏ mặt người, ấm áp tình quân dân. Trong con mắt thơ tài hoa của Quang Dũng đó là đêm hội đuốc hoa, ngọt ngào, đắm say, lãng mạn như đêm động phòng hoa trúc của lứa đôi trong tối tân hôn. Thật là cảm xúc táo bạo và khó phai mờ. Ánh sáng bừng lên cũng là lúc những sắc màu lung linh tỏa rạng của những xiêm áo thổ cẩm:

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu say đến cảm phục. Yêu say từ vóc dáng đến trang phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc tôn vinh thêm vẻ đẹp của họ Quang Dũng không khỏi không thán phục đến ngạc nhiên trước vẻ đẹp ấy. Em trở thành hạt nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phương xa. Và còn bừng lên cả âm thanh của tiếng khèn “man điệu”: Khèn lên man điệu nàng e ấp. Những điệu nhạc truyền thống của các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc du dương, bí ẩn hoang sơ như chốn núi rừng có sức mạnh hút hồn các chàng lính trẻ.

Trong khoảnh khắc ngập tràn âm thanh và ánh sáng ấy, tâm hồn người lính cũng rộn rã, tưng bừng. Thán từ “kìa em” như lời chào đón đầy ngạc nhiên sung sướng đến ngỡ ngàng. Lời chào đón mang tính phát hiện. Em lạ mà quen, quen mà lạ. Trên cái nền không gian ấy “em” xuất hiện. “Em” xuất hiện lập tức trở thành trung tâm thu hút mọi điểm nhìn. Nhân vật “em” đã có những cách lí giải khác nhau. Có thể là những cô gái dân tộc miền núi rừng Tây Bắc, mặc trang phục truyền thống của dân tộc mình, múa những điệu Lâm Tơi, Lâm Vông để phục vụ cán bộ kháng chiến và những anh chàng lính trẻ. “Em” cũng có thể hiểu là những cô trong các đoàn văn công về phục vụ văn nghệ làm giàu có thêm đời sống tinh thần của những người chiến sĩ. Sau bao chặng đường hành quân chiến đấu vất vả gian lao giờ là những phút nghỉ ngơi, thư giãn tinh thần bỏ lại sau lưng bao mệt mỏi, nhọc nhằn của hiện thực cuộc sống. Và “em” cũng có thể chính là những anh chàng lính trẻ. Trong nhật kí trung đoàn có ghi lại: Trong đoàn quân, có những chàng lính trẻ, dáng người mảnh mai, nhỏ nhắn, giả trang làm con gái, khi lên sân khấu diễn cũng tình tứ, duyên dáng như ai bởi sự e ấp, thẹn thùng.

Câu thơ cuối ngời sáng lí tưởng người bộ đội Cụ Hồ. Người đọc cứ tưởng rằng, trước sắc màu lung linh của những bộ xiêm áo, trước điệu nhạc miên man, du dương trầm bổng, trước những điệu múa yêu kiều, duyên dáng, tình tứ, uyển chuyển những chàng trai Hà Thành sẽ bị hút hồn vào đêm liên hoan văn nghệ. Đó cũng là những phút giây lắng lòng để nghỉ ngơi sau một chặng đường dài hành quân mệt mỏi. Nhưng không, có lẽ chúng ta đã lầm tưởng bởi trong giây phút thăng hoa với nghệ thuật, cảm xúc cũng là lúc người lính sống đúng với khát khao cháy bỏng của mình:

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Tiếng nhạc phiêu bồng đưa tâm hồn người lính thoát khỏi thời gian và không gian hiện tại, chơi vơi sang tận thủ đô Viêng Chăn của Lào. Người đọc chắc hẳn đã đặt câu hỏi vì sao? Thủ đô là trung tâm đầu não của một quốc gia. Khi thủ đô còn bóng một kẻ thù nào thì dân tộc đó chưa có độc lập. Và khi bóng giặc bị đẩy ra khỏi thủ đô cũng là lúc nam bang, bốn cõi đã cất lên khúc ca khải hoàn. Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra tại Viêng Chăn của Lào ắt sẽ là đêm liên hoan vui niềm vui trọn vẹn, niềm vui trong chiến thắng. Có thể thấy, trong lúc mộng mơ nhất, người lính Tây Tiến vẫn không quên nhiệm vụ của mình. Vẫn cháy bỏng một khát khao quét sạch bóng quân thù ra khỏi biên cương, bờ cõi. Đó là khát vọng của lí tưởng chân chính, đúng đắn.

Sau những vần thơ rực rỡ sắc màu, lung linh ánh sáng và chan chứa niềm vui về đêm liên hoan lửa trại thắm tình quân dân, Quang Dũng tiếp tục đưa người đọc về với cảnh Sông nước miền Tây mênh mang, huyền ảo:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

Có lẽ người đọc sẽ băn khoăn đặt lên một dấu hỏi: Người đi là ai? Phải chăng đó là những chiến sĩ trong đoàn quân Tây Tiến trên đường trường hành quân đã đi qua mảnh đất Châu Mộc của Hòa Bình. Và giờ đây khi ngồi nhớ về Tây Tiến, Quang Dũng đã nhớ đến khoảnh khắc đầy ắp những kỉ niệm cùng đồng đội thân yêu, nhớ từng khuôn mặt, từng bóng hình thân quen. Câu thơ xuất hiện một cụm từ chỉ thời gian “chiều sương ấy”. Không định vị cụ thể đó là thời gian nào nhưng Quang Dũng chắc còn nhớ như in đó là một buổi hành quân trong chiều sương mù giăng mắc, bao phủ mênh mang khắp núi rừng, sông suối. Một không gian bảng lảng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Cái thực của khí trời Tây Bắc, cái mộng của không khí bảng lảng sương khói hiện lên như một miền cổ tích. Ta nhớ rằng Quang Dũng là một họa sĩ bởi vậy đoạn thơ đậm màu sắc hội họa. Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật tài hoa.

Không gian tràn ngập một màu trắng mờ mờ, bàng bạc của làn khói sương hư ảo chốn núi rừng Tây Bắc. Không gian dòng sông buổi chiều giăng mắc một màu sương, sông nước, bến bờ hoang dại như một bờ tiền sử. Những cây lau không còn vô tri vô giác mà ẩn chứa linh hồn. Phải là một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, tài hoa và lãng mạn mới cảm nhận được hồn lau đang giăng mắc, neo đậu bến bờ. Những bông lau nở trắng khắp bờ sông, phất phơ trong làn gió nhẹ và sương khói lam chiều, nó không chỉ mang hồn cốt của mảnh đất miền Tây mà còn kí thác anh linh của những người đã ngã xuống vì tổ quốc thân yêu. Câu thơ này gợi người đọc nhớ tới câu thơ đầy ám ảnh của bà Huyện Thanh Quan xưa khi nhớ về kinh đô Thăng Long cổ kính qua linh hồn cây cỏ:

Lối xe ngựa cũ hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương

Và nay Quang Dũng nhớ da diết núi rừng Tây Bắc qua hồn lau lay động bến bờ.

Dòng sông miền Tây hiện lên không hiền hòa êm dịu như những con sông nơi đồng bằng mà nó cuộn xoáy và càng dữ dội hơn khi mùa nước lũ tràn về. Bên bờ sông có những bông hoa dại nở, khi nước lũ tràn về, dâng cao làm ngập những đóa hoa rừng. Dòng nước vì yêu hoa nên muốn kéo hoa đi cùng nhưng vì hoa yêu đất nên hoa vấn vương ở lại. Kết quả là bông hoa cứ đong đưa chao mình trên dòng nước lũ, dùng dằng nửa ở, nửa đi nhưng vấn vương không nỡ nên cứ làm mình làm mẩy, làm duyên làm dáng trên dòng sông. Tình cây- tình đất, bông hoa – dòng nước đang cố giao hòa giao cảm làm nên cái duyên đẹp của thiên nhiên, đất trời.

Và có lẽ, hình ảnh trung tâm, điểm nhấn của bức tranh là hình ảnh con người chèo thuyền độc mộc trên dòng nước lũ. Con thuyền độc mộc là một loại thuyền chỉ xuất hiện trên những dòng sông thác dữ giữa núi rừng. Nó không giống như thuyền thắt đuôi én, thuyền nan ở những con sông vùng đồng bằng. Con thuyền được làm từ thân một cây gỗ lớn, được đục và khoét thân nên thuyền rất chắc chắn. Dáng người chèo thuyền độc mộc xuất hiện uyển chuyển, tình tứ. Đó là ai, người con gái hay con trai? Có lẽ người đọc dễ dàng nhận ra dáng uyển chuyển ấy chỉ có thể là những cô thiếu nữ chèo thuyền đưa các chiến sĩ qua sông. Để rồi khi đã sang sông nhưng bao chàng còn ngẩn ngơ, còn làm thơ, còn vấn vương mãi trong tim bóng hình uyển chuyển, mềm mại ấy và rồi bỗng nhiên nó trở thành một hình ảnh trong kỉ niệm ngọt ngào neo đậu mãi trong tim những chàng trai trẻ.

 

 

Người đọc cảm nhận được sự hòa quyện giữa thiên nhiên và con người lao động bình dị. Hình ảnh thiên nhiên với những bông hoa đang làm duyên, làm dáng, đong đưa trên dòng nước lũ thì con người cũng đang duyên dáng, uyển chuyển tựa tay lái nở hoa trên dòng sông. Câu thơ không tả mà gợi, gợi cái dáng mềm mại uyển chuyển của cô gái trên chiếc thuyền độc mộc. Cảnh rất thơ và người cũng rất tình. Bởi vậy tác giả như ngây ngất đắm say. Ở đây cảnh như làm duyên với người. Duyên dáng đến độ và tình tứ cũng hết lời. Bông hoa rừng cũng đong đưa làm duyên với người. Cảnh và người hòa quyện đồng điệu đến mê say trong cái nhìn lãng mạn của Quang Dũng. Ta có cảm nhận đây là thế giới của cõi mộng, cõi mơ, cõi thơ và cõi nhạc. Thơ và nhạc là hai yếu tố tạo nên bức tranh Tây Bắc nên thơ, mĩ lệ. Ai nói rằng Tây Bắc là xứ rừng thiêng nước độc xin hãy một lần để cho tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây Bắc ngấm vào hồn.

Có thể nói, thành công của đoạn thơ chính là sự hòa quyện giữa chất họa, chất nhạc và chất thơ làm thành một. Bút pháp, thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn để lại dấu ấn tài hoa qua đoạn thơ này. Giữa những “bến bờ”, “độc mộc”, “dòng nước lũ” là “hồn lau”, là “dáng người”, là “hoa đong đưa” tất cả được phủ mờ bởi màn trắng mỏng của một “chiều sương” hoài niệm. Tưởng là siêu thực mà lãng mạn, tài hoa.

Tám câu thơ thật đẹp, thật đặc sắc. Nó như một bức tranh thủy mặc với những nét chấm phá tinh tế, mềm mại, sâu lắng. Từ đó, nhà thơ đưa người đọc vào thế giới của cái đẹp, một thế giới của cõi mơ đầy ánh sáng, hội hoạ, điêu khắc, âm nhạc và cả vũ đạo. Tám câu thơ, hai khung cảnh nhưng chung một xúc cảm say đắm, mơ mộng. Phải là một tâm hồn thật tinh tế, nhạy cảm, Quang Dũng mới có thể chắp bút viết nên những vần thơ hay đến thế! Với những thành công về phương diện nội dung cũng như nghệ thuật biểu hiện, “Tây Tiến” xứng đáng ở vị trí là một trong những tác phẩm hay nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp , đưa tên tuổi nhà thơ Quang Dũng sống mãi cùng bạn đọc muôn thế hệ.

Phân tích khổ 2 Tây Tiến hay nhất – Mẫu 1

Bài thơ này ông sáng tác vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh. Tác giả lấy cảm hứng sau sự kiện ông rời đơn vị cũ. Vì nhớ đồng đội, nhớ những kỷ niệm vào sinh ra tử, nhớ những chặng đường hành quân cùng nhau, Quang Dũng đã bất giác gửi gắm qua “Tây Tiến”. Cảm xúc riêng của nhà thơ nhưng cũng chính là xúc cảm chung của một thế hệ trẻ anh hùng:

Đoạn 2 đầy đủ như sau:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ.
Khèn lên man điệu nàng e ấp,
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?

Tây Tiến thực chất là tên của đoàn quân mà Quang Dũng tham gia, được thành lập năm 1947. Quân đoàn này có nhiệm vụ chiến đấu ở vùng Tây Bắc với đa số là thanh niên tri thức ra đi từ Hà Nội. Toàn bộ tác phẩm được thể hiện với bút pháp lãng mạn kết hợp hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu sáng tạo, sinh động đã bộc lộ sự nhớ nhung da diết của Quang Dũng về đồng đội, về sự mĩ lệ, hùng vĩ của núi rừng. Dường như, mọi kết tinh của hồn thơ Quang Dũng đã được lắng đọng lại trong tám câu thơ phác họa cảnh liên hoan ban đêm cùng gái bản và nét mộng mơ, độc mộc trên những con sông miền Tây. Quả thực, dấu ấn âm nhạc và hội họa được tác giả khắc họa nổi bật qua các kỷ niệm đẹp và buổi phân li.

Đoạn 2 Tây Tiến, người đọc như đang được tham gia vào đêm liên hoan thấm đượm tình quân và dân nơi sông nước miền Tây thơ mộng.

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu, nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Bên cạnh những gian khổ nơi rừng thiêng nước độc, trong ký ức của nhà thơ Quang Dũng còn có cả thứ ánh sáng hội hè của những đêm cùng nhân dân vui chơi liên hoan. Nhà thơ khéo léo dùng tư “bừng lên” kết hợp với hình ảnh sinh động “đuốc hoa” đã làm nổi bật lên không khí tưng bừng, sôi nổi của đêm lửa trại. Cả doanh trại khi ấy bỗng bừng sáng lên, lấp lánh như ánh pháo hoa lúc hòa bình. Đó cũng là lúc lời ca tiếng hát của dân bản cũng như các chiến sĩ reo vàng và hòa làm một. Câu hỏi cảm thán “kìa em xiêm áo tự bao giờ” thốt lên bộc lộ sự bất ngỡ, ngạc nhiên đến vui sướng của những chiến sĩ đoàn quân Tây Tiến.

Đã thật lâu lắm rồi, từ khi xa Hà Nội chiến đấu, đoàn lính Tây Tiến mới lại thấy các cô gái tươi trẻ. Mà hôm nay các cô còn lộng lẫy xiêm y truyền thống mang hình bóng của núi rừng nên các anh càng thích thú. Dường như, qua đây tác giả muốn khẳng định, các cô gái Tây Bắc ấy chính là trung tâm, là linh hồn của đêm hội. Sự e thẹn, mềm mại tình tứ, duyên dáng hiện rõ qua nét mặt, nụ cười và điệu múa của các cô.

Nhưng tất cả cái sự e ấp ấy lại hút hồn hút vía các chàng trai đến từ miền đồng bằng. Không dừng lại ở đó, tác giả còn mang vào đêm hội tiếng khèn réo rắt, rạo rực, khiến cảnh vật lẫn con người như bốc men say. Thiên nhiên, con người hòa quyện vào nhau như muốn “xây hồn thơ” trong trẻo, lãng mạn. Không khí của đêm liên hoan còn ngây ngất hơn bởi tiếng khèn rạo rực, réo rắt khiến cho cả con người, cảnh vật như bốc men say, trở nên phong phú, sinh động như muốn “xây hồn thơ” lãng mạn. Có thể nói, 4 câu thơ như phần nào thể hiện sự tinh tế, hồn hoa. Đó cũng chính là tâm hồn hào hoa, tinh tế của nhà thơ Quang Dũng.

Nếu 4 câu thơ trước, tác giả vẽ nên bức tranh ban đêm ở miền núi rừng Tây Bắc sôi động trong ánh lửa trại bập bùng thì 4 câu thơ sau lại đưa người đọc đến bức tranh về dòng sông miền sơn cước. Bức tranh ấy gợi lên một xúc cảm thật mờ ảo, mênh mang:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.”

Khi phân tích đoạn 2 Tây Tiến này, các bạn không khó nhận ra ngòi bút của nhà thơ không phải tả chi tiết mà chỉ gợi mở. Tác giả sử dụng một loạt những hình ảnh mờ ảo như “ chiều sương ấy”, “hồn lau”, “ nẻo bến bờ”, “ hoa đong đưa” kết hợp với cách hỏi cảm thán không cần lời đáp như “ có thấy”, “ có nhớ”…. Điều đó đã vẽ ra trước mắt độc giả một khung cảnh miền Tây thật nên thơ và ảo mộng. Những màn sương của thiên nhiên đang giăng mắc khắp nẻo không gian, hai bến bờ mang dáng vẻ hoang dại, lặng lẽ. Thế rồi, khi người chiến sĩ đang đắm mình trong cảnh đẹp đó thì trên sông bỗng xuất hiện dáng người uyển chuyển, nhẹ nhàng của cô gái Thái. Cô gái đang chèo thuyền độc mộc. Cảnh tượng ấy sao giống như những bông hoa của núi rừng đang làm duyên làm dáng trên dòng nước. Con người và cảnh vật hòa hợp vào nhau, tạo nên sự thiêng liêng của tạo hóa, khiến núi rừng miền Tây đậm chất huyền thoại và cổ tích.

Qua những nét vẽ hư ảo của nhà thơ Quang Dũng, người độc có cảm tưởng như đang ngắm nhìn một bức tranh sở thủy hữu tình. Bảo quanh bức tranh là cảnh núi rừng trùng điệp, giữa bức tranh là cảnh sông nước đan xen với cảnh liên hoan tình quân dân rộn ràng. Nếu không có một tâm hồn lãng mạn, một trái tim nhạy cảm biết yêu thương, một trí tuệ tài hoa, tinh tế, thì tác giả khó lòng tạo nên một tác phẩm đặc sắc như vật. Ngôn từ của ông có thể ghi dấu ấn trong lòng người đọc, bởi đó chính là cảm xúc, là sự rung động thật sử của tác giả. Đó là tình cảm chân thật, xuất phát từ trái tim trước vẻ đẹp thiên nhiên miền Tây cũng như nỗi nhớ đồng đội. Đi chiến trận, cuộc sống luôn treo đầu ngọn súng, việc tâm hồn được vui tươi, được có giây phút bình yên thấm đượm tình người như thế thật đáng quý. Có lẽ vì mỗi giây phút như vậy đều hiếm hoi nên nhà thơ mới xúc động đến thế, mới khéo léo vẽ nên bức tranh bằng lời như vậy!

Như vậy, tám câu thơ ở đoạn hai hoàn toàn không mang tới sự hy sinh chết chóc. Nó hoàn toàn là bức tranh thiên nhiên và con người miền Tây đầy kiều diễm và xinh đẹp. Chất họa, chất nhạc, sự mộng mơ của hồn người hòa hợp vào nhau tạo nên một tác phẩm thật hoàn hảo. Từng nét vẽ tranh bằng con chữ của nhà thơ thật uyển chuyển và độc đáo. Đó cũng chính là sự lãng mạn và tài hoa trong tâm hồn nhà thơ xứ Đoài này.

Phân tích Tây Tiến khổ 2 – Mẫu 2

Bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng có thể nói là một trong những bài thơ thành công nhất về đề tài người lính. Toàn bài đã in đậm dấu ấn tài hoa, lãng mạn, phóng khoáng của hồn thơ Quang Dũng. Với tài năng và tâm hồn ấy, nhà thơ đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến mang một vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng trên nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, tráng lệ. Bài thơ này giống như miền kí ức của tác giả về binh đoàn Tây Tiến. Không chỉ có những ngày tháng gian khó với đèo cao, thác dữ, mưa rừng, thú dữ, sương mù, mà trong miền ký ức của nhà thơ còn có cả ánh sáng của những đêm liên hoan tưng bừng và cảnh sắc buổi chiều êm ả, mông lung nơi núi rừng Tây Bắc. Tất cả những điều đó đã được Quang Dũng tái hiện thành công qua khổ thơ thứ hai của bài.

Bốn câu thơ đầu tiên như một ra thế giới khác biệt nơi miền Tây:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu, nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Hình ảnh “đuốc hoa” được hiểu là cây nến thắp lên trong phòng tối đêm tân hôn, nhưng ở trong câu thơ đầu, “đuốc hoa” ấy lại mang nghĩa là ánh sáng của đêm liên hoan. Dù hiểu theo nét nghĩa nào, nó vẫn tạo ra không khí ấm cúng, gợi lên niềm vui, niềm hạnh phúc của những chiến sĩ. Từ “bừng” ở đây vừa là ánh sáng của đuốc hoa, ánh sáng của lửa trại, vừa là màn cất giọng của những tiếng khen, tiếng hát, tiếng cười nói rộn rã của mọi người. Từ “bừng” ấy ta đã từng bắt gặp trong thơ của Tố Hữu, khi người thanh niên trẻ đã giác ngộ lí tưởng Đảng:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Điểm chung của sự “bừng” của Quang Dũng và Tố Hữu là trước nó mang một màu u tối, và sau nó là ánh sáng ngập tràn. Có thể hình dung đêm hội mà Quang Dũng đang kể lại trong bốn câu thơ này giống như một đám cưới tập thể. Từ “kìa em” ở câu thơ thứ hai thể hiện được sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng của những chàng lính Tây Tiến trước vẻ đẹp của những cô gái vùng cao trong trang phục “xiêm áo” lộng lẫy, kiêu sa cùng dáng vẻ “e ấp” đậm chất thiếu nữ. Nhà thơ đã phát hiện ra vẻ đẹp tỏa sáng của cô gái bằng cả niềm yêu, sự say đắm đến cảm phục từ vóc dáng cho đến trang phục. Chính trang phục truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc, bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ. Vẻ đẹp ấy đã khiến nhà thơ phải thán phục đến ngạc nhiên. Hình ảnh “em” trở thành hạt nhân của cả bức tranh đêm hội với vẻ đẹp xứ lạ phương xa. Có thể nói, bốn câu thơ đầu của khổ hai đã xua tan đi cảm giác mỏi mệt, đẩy lùi những vất vả, gian khó của những người chiến sĩ. Thay vào đó là niềm lạc quan, yêu đời nâng bước họ mạnh mẽ hơn trên con đường hướng về Viên Chăn xây hồn thơ. Từ đó, người đọc cảm nhận được rằng dù trong những phút giây vui vẻ, những người chiến sĩ vẫn hướng về lí tưởng cách mạng cao cả.

Nếu ở bốn câu thơ trước là khung cảnh đêm đuốc hoa, thì ở bốn câu thơ sau là khung cảnh thiên nhiên Tây Bắc trong buổi chiều sương:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có thấy dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc được hiện ra theo chiều hướng nhẹ hóa. Cái dữ dội, khốc liệt của thác dữ bị đẩy lùi đi, thay vào đó là những hình ảnh nhẹ nhàng và thơ mộng. Hình ảnh “chiều sương” đã cho người đọc thấy được nét đặc trưng vốn có ở nơi đây.“Chiều sương ấy” dường như là một điều gì đó mơ hồ, không thực, nhưng nó lại gợi lên màu sắc bảng lảng, mờ ảo mà mang đậm nỗi buồn man mác. Đại từ “ấy” làm rõ nghĩa cho hình ảnh “chiều sương”, nó thật đặc biệt đến nỗi trở thành kỉ niệm khiến lòng người bâng khuâng.

Đoạn thơ này mang đậm màu sắc của hội họa. Cái thực của khí trời Tây Bắc, kết hợp với cái mờ ảo của sương khói đã tạo nên một miền cổ tích riêng biệt. Có lẽ, chất họa sĩ của Quang Dũng đã ăn vào thơ ở đoạn này.Chỉ với một vài nét chấm phá, nhà thơ đã làm cho cái hồn của cảnh vật và con người được hiện lên một cách sinh động và cuốn hút. Hình ảnh cây lau trong câu thơ thứ ba dường như không còn chỉ là cây lau vô tri vô giác nữa, mà nó có linh hồn của riêng mình – “hồn lau”. “Hồn lau” gợi cảm giác hoang vắng, tĩnh lặng, giàu chất thơ sâu lắng, vừa có chút gì đó ma mị của bức tranh thiên nhiên.

Giữa không gian thiên nhiên nên thơ của vùng núi rừng Tây Bắc, hình ảnh con người hiện ra với vẻ đẹp khỏe khoắn, bất khuất, kiên cường:

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Điệp ngữ “có thấy – có nhớ” luyến láy như chạm khắc vào lòng người một nỗi nhớ da diết, cháy bỏng khôn nguôi. Dáng người ấy có thể là hình ảnh uyển chuyển, mềm mại của những cô gái bản địa đưa các chiến sĩ vượt sông, cũng có thể là hình ảnh của những người lính Tây Tiến chèo chống con thuyền để vượt sông, vượt thác dữ tiến về phía trước. Tất cả những hình ảnh ấy để lại cho nhà thơ những ấn tượng khó phai nhòa.

Từ láy “đong đưa” được sử dụng rất gợi cảm ở câu thơ cuối:

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Cánh hoa rừng như đang quyến luyến con người, nó như bàn tay vẫy chào người lính, tiễn họ vượt sông đi đánh giặc.Đoạn thơ đã để lại dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà thành công nhất là sự kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, bên cạnh các yếu tố nghệ thuật.

Có thể nói, với ngôn ngữ mộc mạc, giản dị mà đậm chất lãng mạn, hào hoa, Quang Dũng đã tái hiện lại khung cảnh, con người trong đêm liên hoan nơi doanh trại và cả khung cảnh chiều sương nơi rừng núi Tây Bắc. Với từng nét vẽ mềm mại, uyển chuyển, nhà thơ đã vẽ nên một thế giới của cái đẹp. Đây cũng là đoạn thơ bộc lộ rõ nhất sự tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng trong cả bài thơ.

Phân tích Tây Tiến khổ 2 – Mẫu 3

“Thơ làm cho tất cả những gì tốt đẹp trở thành bất tử”. (Shefley) Và Quang Dũng đã làm sống lại những gì đẹp đẽ nhất, những kí ức khó quên nhất trong cuộc đời người lính. Đó không chỉ là những giây phút hành quân nơi núi cao vực sâu dốc thẳm mà còn là những khoảnh khắc bình yên. Đêm hội liên hoan tại một bản làng trên vùng núi cao Tây Bắc là một hành trang tinh thần không thể thiếu trong cuộc đời người lính.

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa”

Doanh trại không chỉ là không gian của hiện thực mà còn là không gian của tâm tưởng, của hoài niệm và nỗi nhớ. Nơi đó đang bừng lên bởi những ngọn lửa bập bùng mà tác giả liên tưởng đến đuốc hoa. Những bông hoa lửa như thắp sáng cả cánh rừng đại ngàn, đẩy lùi bóng tối, xua tan sự lạnh lẽo, làm bừng sáng cả không gian. Hai từ “bừng lên” không chỉ là bừng lên của ngọn đuốc mà còn là “bừng lên” của kỉ niệm, của hồi ức như một tiếng reo vui biết bao hồ hởi, say mê. Không còn những chặng đường hành quân vất vả, cũng không còn những bước chân nhọc nhằn ra trận mà chỉ còn lại không khí rộn ràng sôi nổi. Người lính như quên hết những mệt mỏi hiểm nguy để đắm hồn mình vào đêm hội liên hoan ấy.

Hình ảnh trung tâm của đêm hội liên hoan là sự hiện diện của những cô thiếu nữ vùng sơn cước:

“Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.”

Trong ánh lửa bập bùng của ngọn đuốc lung linh kì ảo, trong tiếng khèn tiếng nhạc du dương, những cô thiếu nữ vùng cao xuất hiện với vẻ đẹp lộng lẫy, quyến rũ, e ấp, duyên dáng và tình tứ khiến những chàng lính không khỏi ngạc nhiên, ngỡ ngàng. “Kìa em” là tiếng reo với bao bất ngờ vui sướng và có cả sự thán phục ngợi khen. Với những bộ trang phục thật đẹp và lạ mắt, với những vũ điệu đậm sắc màu dân tộc và cả nét e ấp e thẹn, những cô gái sơn cước đã khiến bao chàng trai Tây Tiến như bị hút hồn, ngây ngất.

Cảnh vật và con người đểu như ngả nghiêng, say sưa trong tiếng khèn, tiếng nhạc, trong những vũ điệu ngọt ngào say đắm, vừa có chút gì đó hoang dại bí ẩn mê hoặc lòng người. Những âm thanh khốc liệt của súng đạn bị đẩy lùi chỉ còn những tâm hồn lãng mạn, những “hồn thơ” hòa mình trong điệu nhảy điệu múa đến say lòng người.

Sau những hoài niệm về đêm lửa trại ấm áp tình quân dân là những bâng khuâng xa vắng trong nỗi nhớ miên man về cảnh sông nước và con người miền Tây Bắc.

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”

Sông nước miền Tây hiện ra vào một buổi chiều sương tĩnh lặng. Không gian giăng mắc một màn sương mênh mang, mờ ảo và nhạt nhòa, tạo nên vẻ đẹp lãng mạn huyền ảo. Ở đây không phải là sương lấp, sương che hay sương phủ mà là sương giăng, ta như cảm nhận được cái thực và cái mộng của khí trời Tây Bắc bảng lảng sương khói hiện ra như một miền cổ tích.

Hai bên bờ sông là những dãy lau ngút ngàn gợi lên một không gian hoang sơ tĩnh lặng. Những bông lau chập chờn lay động như có hồn. Hồn của lau hay chính tâm hồn của nhà thơ đã hóa thân vào cảnh vật trong những bông lau phất phơ, huyền ảo. Khung cảnh sông nước hoang vắng man mác buồn chợt khiến ta nhớ đến dòng sông Đà trong trang văn của Nguyễn Tuân “dòng sông như chảy từ tiền cổ”, “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích xưa.”

Sông nước miền Tây không chỉ hiện lên đậm chất hiện thực mà còn rất đỗi thơ mộng trữ tình. Vẻ đẹp của con người hòa quyện trong vẻ đẹp của thiên nhiên.

“Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.”

Hình ảnh thiếu nữ Tây Bắc xuất hiện trên chiếc thuyền độc mộc với vẻ đẹp vừa mềm mại uyển chuyển, duyên dáng lại vừa vững chãi đưa con thuyền xuôi dòng. Hình ảnh người con gái trở thành trung tâm hội tụ linh hồn của bức tranh sông nước miền Tây. Không phải ngẫu nhiên khi Quang Dũng đặt hình ảnh người thiếu nữ bên cạnh “hoa đong đưa”. “Đong đưa” chứ không phải là “đung đưa”. Nếu “đung đưa” chỉ là sự chuyển động vật lý thì “đong đưa” còn đem đến tâm trạng, linh hồn cho cảnh vật. Những bông hoa rừng trở thành những sinh thể có hồn. Hoa cũng như con người đang soi mình trong gương nước chòng chành, cũng biết làm duyên làm dáng. Hóa ra con người Tây Bắc, bóng dáng của người thiếu nữ trên chiếc thuyền độc mộc cũng đẹp như những bông hoa rừng trong chiều sương mờ ảo.

Phân tích khổ 2 Tây Tiến – Mẫu 4

Quang Dũng vốn là lính của đơn vị Tây Tiến, một đơn vị có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để giải phóng và bảo vệ miền biên cương phía Tây Tổ quốc. Sau đó Quang Dũng chuyển đơn vị công tác. Năm 1948, một lần ngồi ở làng Phù Lưu Chanh (một địa danh cũ thuộc tỉnh Hà Đông), nhớ lại những kỉ niệm về đoàn quân Tây Tiến, tác giả cảm xúc viết lên bài thơ tuyệt bút – Tây Tiến. Tây Tiến không chỉ là bài thơ hay nổi tiếng của Quang Dũng nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung mà còn là một trong những tác phẩm tiêu biểu viết về đề tài người lính, vẻ đẹp lãng mạn và tinh thần bi tráng được thể hiện qua thiên nhiên Tây Bắc và hình tượng người lính là hai nét đặc sắc trong cảm hứng và bút pháp nghệ thuật của Tây Tiến. Đoạn thơ sau viết về những kỉ niệm tình quân dân đầy thi vị và vẻ đẹp thơ mộng của sông nước Tây Bắc bằng những nét vẽ tinh tế mềm mại:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Từ “bừng” trong câu thơ đầu tiên của đoạn thơ đã gợi cho ta cảm giác đột ngột. Đó là sự “bừng” sáng của hội đuốc hoa, của lửa trại hay sự tưng bừng rộn rã của tiếng khèn, tiếng hát? “Đuốc hoa” vốn là một từ cổ để chỉ cây nến đốt lên trong phòng cưới đêm tân hôn “Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng Mai xưa”. Hình ảnh này xuất hiện trong đêm vui liên hoan của người lính đã tạo nên một màu sắc vừa cổ kính vừa hiện đại, vừa thiêng liêng vừa ấm áp tình keo sơn quân dân gắn bó.

Đây là đoạn thơ bộc lộ rất rõ nét tài hoa của ngòi bút Quang Dũng. Hồn thơ lãng mạn của ông bị hấp dẫn trước những vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn của con người và cảnh vật nơi xứ lạ. Vì thế, cảnh là cảnh trong hoài niệm vậy mà lời thơ lại cho ta cảm giác đó là cảnh đang diễn ra ngay trước mắt. Và nhà thơ như đang nói với người vũ nữ “Kìa em xiêm áo tự bao giờ!” – một giọng thơ thật trìu mến, thích thú, vui sướng! Vui sướng đến ngạc nhiên ngỡ ngàng trước vẻ đẹp vừa e thẹn, vừa tình tứ (nàng e ấp) với bộ xiêm y lộng lẫy trong một vũ điệu mang đậm màu sắc xứ lạ (man điệu). Chỉ bằng 4 câu thơ mà Quang Dũng đã dựng được một bức tranh vừa phong phú về màu sắc đường nét, vừa đa dạng về âm thanh.

Nếu khung cảnh đêm liên hoan văn nghệ trong những câu thơ trên đem đến cho người đọc không khí mê say ngây ngất thì cảnh sông nước Tây Bắc lại gọi lên được cảm giác mênh mang, hoang dại, tĩnh lặng và mờ ảo thật chứa chan thi vị. Ở đây một lần nữa càng khẳng định rõ hơn nét tài hoa, lãng mạn, giấc mộng mơ của người lính. Thiên nhiên ở nơi chốn chỉ có “Núi sương giăng, đèo mây phủ” khi cảnh chiều về vốn đã mờ ảo lại càng mờ ảo thêm khi có lớp sương mờ bảng lảng choàng thêm một tấm áo như thực như mơ. Qua hoài niệm, khung cảnh Tây Bắc như hiện về trong kí ức của tác giả làm cho giọng thơ của tác giả cất lên như lời tự hỏi “có nhớ? có thấy?” day dứt càng gợi cảm giác bâng khuâng xa vắng, đầy lưu luyến. Con người tài hoa và lãng mạn ấy thấy bạt ngàn hồn lau trong gió trong cây như xôn xao một nỗi niềm:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Hình ảnh này chúng ta đã từng gặp trong thơ của Chế Lan Viên:

Ai đi biên giới cho lòng ta theo với
Thăm ngàn lau chỉ trắng có một mình
Bạt ngàn trắng ở tận cùng bờ cõi
Suốt một đời cùng với gió giao tranh

(Lau biên giới)

Hay những câu thơ viết về hồn lau trong gió gợi cảm giác về cảnh buồn vắng lặng tờ như thời tiền sử huyền thoại của thi sĩ kiêm họa sĩ Hoàng Hữu:

Trường vắng mưa mờ buông dốc xa
Dày leo nửa mái sắc rêu nhoà
Người xa phơ phất hồn lau gió
Thổi trắng chân đồi như khói pha

(Hoa lau trường cũ)

Trong khung cảnh sông nước, chiều sương mang đậm màu sắc cổ kính huyền thoại ấy hiện lên hình ảnh con thuyền độc mộc với cái dáng mềm mại của cô gái và bông hoa trôi theo dòng nước lũ:

Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Câu nói của người xưa: “Thi trung hữu họa” thật đúng với trường hợp này. Ngòi bút tinh tế của Quang Dũng chỉ phác hoạ một vài nét mà không chỉ gợi được cái “hồn” của ngàn lau mà còn cả cái dáng rất tạo hình của cô gái lái đò người Mèo, người Thái, cái dáng ngả nghiêng rất tình tứ “đong đưa” chứ không phải “đung đưa” của những bông hoa rừng như muốn làm duyên bên dòng nước lũ. Hai từ “thấy” và “nhớ” được tác giả dùng trong hai câu thơ trên cũng khá tinh tế. Dường như cái hồn thiêng của bông hoa lau đã in hình rõ nét trong mắt tác giả còn cái dáng mềm mại thon thả của cô lái đò cùng bông hoa rừng đong đưa lại khắc sâu vào tâm trí nhà thơ vốn giàu tình yêu cảnh đẹp non sông đất nước này. Không có một tâm hồn nhạy cảm tài hoa thì không thể bắt rất nhạy những hình ảnh giàu hình sắc của hoa như thế.

Bốn câu thơ như một bức tranh thủy mặc với những nét vẽ chấm phá, tinh tế, mềm mại, tài hoa đã truyền được cái hồn của cảnh vật. Hơn thế, đọc đoạn thơ này lên, người đọc có cảm giác đoạn thơ không chỉ được khắc, được phổ vào những nốt nhạc tinh tế mà nhạc điều đó còn được cất lên từ một tâm hồn say đắm với cảnh và người miền Tây Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Cho nên rất có lí khi Xuân Diệu nhận xét “Đọc bài thơ Tây Tiến ta có cảm giác như ngậm âm nhạc trong miệng”.

Đoạn thơ thể hiện bút pháp tài hoa của tác giả. Qua đó, người đọc thấy cảnh đêm liên hoan văn nghệ, cái sông nước Tây Bắc mang vẻ đẹp hiện thực lãng mạn mà huyền ảo với từng vần thơ vừa giàu chất nhạc vừa giàu chất họa. Đó cũng chính là sự kết hợp hài hòa tuyệt diệu giữa ba yếu tố: thơ, nhạc, họa trong thi phẩm của Quang Dũng.

Phân tích khổ 2 Tây Tiến – Mẫu 5

Tây Tiến là bài hát của tình thương mến, là khúc ca chiến trận của anh Vệ quốc quân năm xưa, những anh hùng buổi đầu kháng chiến “Áo vải chân không đi lùng giặc đánh” (Nhớ — Hồng Nguyên), những tráng sĩ ra trận với lời thề “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.

Quang Dũng viết bài thơ Tây Tiến vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, bên bờ sông Đáy thương yêu: “Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc — Sáo diều khuya khoắt thổi đèn trăng’’ (Đôi mắt người Sơn Tây – 1949). Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập vào năm 1947, hoạt động và chiến đấu ở thượng nguồn sông Mã, miền Tây Hòa Bình, Thanh Hóa sang sầm Nưa, trên dải biên cương Việt — Lào. Quang Dũng là một đại đội trưởng trong đoàn binh Tây Tiến, đồng đội anh nhiều người là những chàng trai Hà Nội yêu nước, dũng cảm, hào hoa. Bài thơ Tây Tiến nói lên nỗi nhớ của tác giả sau một thời gian xa rời đơn vị: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! – Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi…”.

Bài thơ gồm có bốn phần. Phần đầu nói về nỗi nhớ, nhớ sông Mã, nhớ núi rừng miền Tây, nhớ đoàn binh Tây Tiến với những nẻo đường hành quân chiến đấu vô cùng gian khổ… Đoạn thơ trên đây gồm có 16 câu thơ, là phần hai và phần ba của bài thơ ghi lại những kỉ niệm đẹp một thời gian khổ, những hình ảnh đầy tự hào về đồng đội thân yêu.

Ở phần đầu, sau hình ảnh “Anh bạn dãi dầu không bước nữa – Gục lên súng mũ bỏ quên đời”, người đọc ngạc nhiên, xúc động trước vần thơ ấm áp, man mác, tình tứ, tài hoa:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Bát cơm tỏa khói nặng tình quân dân, tỏa hương của “thơm nếp xôi”, hương của núi rừng, của Mai Châu.. và hương của tình thương mến.

Mở đầu phần hai là sự nối tiếp cái hương vị “thơm nếp xôi” ấy. “Hội đuốc hoa” đã trở thành kỉ niệm đẹp trong lòng nhà thơ, và đã trở thành hành trang trong tâm hồn các chiến binh Tây Tiến:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.

“Đuốc hoa” là cây nến đốt lên trong phòng cưới, đêm tân hôn, từ ngữ được dùng trong văn học cũ: “Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa” (Truyện Kiều). Quang Dũng đã có một sự nhào nặn lại: hội đuốc hoa – đêm lửa trại, đêm liên hoan trong doanh trại đoàn binh Tây Tiến. “Bừng” chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng lên; cũng còn có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười tưng bừng rộn rã. Sự xuất hiện của “em”, của “nắng” làm cho hội đuốc hoa mãi mãi là ki niệm đẹp một thời chinh chiến. Những thiếu nữ Mường, những thiếu nữ Thái, những cô gái Lào xinh đẹp, duyên dáng “e ấp”, xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ, cùng với tiếng khèn “man điệu” đã “xây hồn thơ” trong lòng các chàng lính trẻ. Chữ “kìa” là từ để trỏ, đứng đầu câu “Kìa em xiêm áo tự bao giờ” như một tiếng trầm trồ, ngạc nhiên, tình tứ. Mọi gian khổ, mọi thử thách, như đã bị đẩy lùi và tiêu tan.

Xa Tây Tiến mới có bao ngày, thế mà nhà thơ “nhớ chơi vơi”, nhớ “hội đuốc hoa”, nhớ “Châu Mộc chiều sương ấy”. Hỏi “người đi” hay tự hỏi mình “có thấy” và “có nhớ”. Bao kỉ niệm sâu sắc và thơ mộng lại hiện lên và ùa về:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

Chữ “ấy” bắt vần với chữ “thấy”, một vần lưng thần tình, âm điệu câu thơ trĩu xuống như một nốt nhất, một sự nhắc nhở trong hoài niệm nhiều bâng khuâng. Nữ sĩ xưa nhớ kinh thành Thăng Long là nhớ “hồn thu thảo”, nay Quang Dũng nhớ là nhớ “hồn lau”, nhớ cái xào xạc của gió, nhớ những cờ lau trắng trời. Có “nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi” thì mới có nhớ và “có thấy hồn lau” trong kỉ niệm. “Có thấy”… rồi lại “có nhớ”, một lối viết uyển chuyển tài hoa, đúng là “câu thơ trước gọi câu thơ sau” như những kỉ niệm trở về… Nhớ cảnh (hồn lau) rồi nhớ người (nhớ dáng người) cùng con thuyền độc mộc “trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Hình ảnh “hoa đong đưa” là một nét vẽ lãng mạn gợi tả cái “dáng người trên độc mộc” trôi theo thời gian và dòng hoài niệm. Đoạn thơ gợi lên một vẻ đẹp mơ hồ, thấp thoáng, gần xa, hư ảo trên cái nền “chiều sương ấy”. Cảnh và người được thấy và nhớ mang nhiều man mác, bâng khuâng. Bút pháp, thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn để lại dấu ấn tài hoa qua đoạn thơ này.

Giữa những “bến bờ”, “độc mộc”, “dòng nước lũ” là “hồn lau”, là “dáng người”, là “hoa đong đưa” tất cả được phủ mờ bởi màn trắng mỏng của một “chiều sương” hoài niệm. Tưởng là siêu thực mà lãng mạn, tài hoa.

Hai đoạn thơ trên đây thể hiện cốt cách và bút pháp lãng mạn, hồn thơ tài hoa của Quang Dũng. Nếu “thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp” thì Tây Tiến đã cho ta cảm nhận về ấn tượng ấy. Tây Tiến đã mang vẻ đẹp độc đáo của một bài thơ viết về người lính – anh bộ đội Cụ Hồ những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Bài thơ hội tụ mọi vẻ đẹp và bản sắc của thơ ca kháng chiến ca ngợi chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.

Phân tích khổ 2 Tây Tiến – Mẫu 6

Cả đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên diễm lệ có sức hòa hợp diệu kỳ giữa thiên nhiên và con người. Cảnh trí miền Tây ở khổ thơ dường như được tạo hình theo thi pháp truyền thống: “Thi trung hữu hoạ, thi trung hữu nhạc”. Một miền Tây thơ mộng thi vị giàu sức cuốn hút. Đoạn thơ thứ 2 này được xem là đoạn thơ tiêu biểu cho bút pháp nghệ thuật của Quang Dũng.

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

“Bừng lên” vừa đột ngột, bất ngờ vừa thú vị. Cả cảnh vật và lòng người đều bừng sáng lên. Chất hào hoa trong bút pháp thể hiện của Quang Dũng đã bộc lộ ngay từ câu thơ đầu. Hai cụm từ “bừng lên” “hội đuốc hoa” thể hiện sự tinh tế trong việc sử dụng từ ngữ của Quang Dũng. Hai cụm từ này vừa có tính tả thực vừa đậm chất lãng mạn. “Bừng lên” vừa có nghĩa bừng sáng lung linh vừa như bừng tỉnh.

“Hội đuốc hoa” đây là cảnh thực. Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra dưới những cánh rừng, người đến dự đều cầm trên tay ngọn đuốc, gió thổi làm những ngọn đuốc lung linh phát ra những tia lửa. Cảnh tượng này trong đêm quả thật nhìn như hoa đuốc. Cảm nhận của Quang Dũng vừa tinh tế vừa lãng mạn, câu thơ gợi sức liên tưởng, tưởng tượng cho người đọc. Trên cái nền không gian ấy “em” xuất hiện. “Em” xuất hiện lập tức trở thành trung điểm của mọi điểm nhìn.

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

“Kìa em” lời chào đón đầy ngạc nhiên sung sướng đến ngỡ ngàng. Lời chào đón mang tính phát hiện. Em lạ mà quen, quen mà lạ. Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục. Yêu say từ vóc dáng đến trang phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ Quang Dũng không khỏi không thán phục đến ngạc nhiên trước vẻ đẹp ấy. Em trở thành hạt nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phương xa. Câu thơ thứ ba xuất hiện lập tức khổ thơ như tràn đầy âm nhạc.

Khèn lên man điệu nàng e ấp.

Những âm thanh phát ra từ nhạc cụ của đồng bào Tây Bắc đối với người lính Tây Tiến vừa lạ vừa có vẻ hoang dại mang tính sơ khai mà đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Chính cái lạ ấy làm đắm say tâm hồn những chàng trai Tây Tiến gốc Hà Nội hào hoa. Từ “man điệu” mà Quang Dũng sử dụng ở đây cũng rất tài hoa. Người đọc như được chứng kiến những vũ khúc hoang sơ của văn hóa u Lạc. Vũ khúc ấy hòa với vũ điệu Em duyên dáng, e ấp, tình tứ. Ta chú ý tác giả sử dụng từ : Ban đầu là “em” tiếp đến là “nàng” rồi sau lại là “em”. Từ cách sử dụng ấy ta cảm nhận được em như một nàng tiên kiều diễm và ta như lạc vào cõi thần tiên với không khí mê say đến ngây ngất. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những người lính Tây Tiến thực sự ngất ngây trước người và cảnh.

Sẽ rất thiếu sót nếu như chúng ta dừng lại ở đây. Bởi lẽ bốn câu sau của đoạn thơ mới thực sự thi vị. Cả bốn câu là cảnh sắc Tây Bắc gợi cảm giác mênh mang, huyền ảo:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

Một không gian bảng lảng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Cái thực của khí trời Tây Bắc, cái mộng của không khí bảng lảng sương khói hiện lên như một miền cổ tích. Ta nhớ rằng Quang Dũng là một họa sĩ bởi vậy đoạn thơ đậm màu sắc hội họa. Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật là tài hoa. Chỉ một vài nét chấm phá vậy mà cái hồn của cảnh vật và con người hiện lên thật sinh động đầy sức cuốn hút.

Không gian dòng sông buổi chiều giăng mắc một màu sương, sông nước bến bờ hoang dại như một bờ tiền sử. “Hồn lau” những cây lau không còn vô tri vô giác mà có linh hồn. Phải là một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, tài hoa và lãng mạn mới cảm nhận được hồn lau đang giăng mắc dọc nẻo bến bờ. Không gian nên thơ ấy làm nền cho người thơ xuất hiện:

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Câu thơ không tả mà gợi, gợi cái dáng mềm mại uyển chuyển của cô gái trên chiếc thuyền độc mộc. Cảnh rất thơ và người cũng rất tình. Bởi vậy tác giả như ngây ngất đắm say trước cảnh và người, ở đây cảnh như làm duyên với người.

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Duyên dáng đến độ và tình tứ cũng hết lời: Bông hoa rừng cũng đong đưa làm duyên với người. Cảnh và người hòa quyện đồng điệu, tình tứ đến mê say trong cái nhìn lãng mạn của Quang Dũng. Ta có cảm nhận đây là thế giới của cõi mộng, cõi mơ, cõi thơ và cõi nhạc. Thơ và nhạc là hai yếu tố tạo nên bức tranh Tây Bắc nên thơ, mĩ lệ. Ai nói rằng Tây Bắc là xứ rừng thiêng nước độc xin hãy một lần để cho tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây Bắc ngấm vào hồn.

Đoạn thơ bộc lộ chất tài hoa, chất lãng mạn của Quang Dũng đến tuyệt vời. Cảm ơn nhà thơ đã cho ta một chuyến hành trình về với Tây Bắc thơ mộng để khám phá Tây Bắc và yêu Tây Bắc.

Phân tích khổ 2 Tây Tiến – Mẫu 7

Thơ ca muôn đời nay luôn là tiếng lòng của người nghệ sĩ, là cây đàn muôn điệu đa bậc nhiều cung cảm xúc khác nhau. Thơ ca cũng là cầu nối giữa trái tim đến với trái tim, đi tìm chân trời của một người đến chân trời của triệu người. Bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng cũng đã thực sự trở thành tiếng nói tri âm của độc giả. Đọc đoạn 2 của bài thơ ta ấn tượng sâu sắc về những kỉ niệm và nỗi nhớ qua đó tác giả thể hiện sinh động vẻ đẹp lãng mạn hào hoa của chiến sĩ Tây Tiến.

Bốn câu thơ đầu miêu tả những ấn tượng sâu sắc, những cảm nhận tinh tế của chiến sĩ Tây Tiến về một đêm lửa trại:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về viên chăn xây hồn thơ”

Câu thơ đầu tựa như một tiếng reo vui. Đây là lần thứ hai, “lửa” và “đuốc” được liên tưởng tới hoa trong đêm sương ở Mường Lát, chiến sĩ Tây Tiến nhìn đuốc soi đường lung linh, huyền ảo mà thấy như “hoa về trong đêm hơi” thì lần này trong đêm lửa trại giữa bản làng miền Tây . Nghệ thuật ẩn dụ và cảm hứng lãng mạn đã khiến ánh lửa bập bùng nơi bóng quân trở thành đuốc hoa rực rỡ gợi liên tưởng thi vị, tình tứ, đem đến niềm vui náo nức, rạo rực cho lòng người, niềm vui khiến đêm liên hoan giữa bộ đội và dân làng trở thành đêm hội tưng bừng. Cụm từ “bừng lên” như một nốt nhấn tươi sáng cho cả câu thơ, nó không chỉ đem đến ấn tượng về ánh sáng chói lóa, đột ngột của lửa, của đuốc, xua đi cái tối tăm, lạnh lẽo của núi rừng mà còn thể hiện niềm vui sướng rạo rực trong lòng người. Người đọc có thể hình dung những ánh mắt ngỡ ngàng, những gương mặt bừng sáng của những anh chiến sĩ là do phản chiếu của ánh lửa, ấm lòng chiến sĩ, ngọn lửa của niềm vui, trẻ trung, lạc quan, tin tưởng vào tương lai.

Hình ảnh trung tâm của hội đuốc hoa là các cô thiếu nữ miền sơn cước “Kìa em xiêm áo tự bao giờ”. Từ “kìa” và từ nghi vấn “tự bao giờ” bộc lộ cảm giác vừa ngỡ ngàng thú vị, với ngưỡng mộ trìu mến của các chiến sĩ trước sự xuất hiện của các cô gái miền Tây. Đó là cảm giác rất chân thực trong một dịp hiếm hoi sau bao ngày hành quân giữa rừng già với núi cao, dốc thẳm, sương dày, với mưa rừng và thú dữ,… “Man điệu” có thể hiểu là những vũ điệu uyển chuyển của các sơn nữ, cũng có thể hiểu là giai điệu say đắm, ngọt ngào vừa hoang sơ, vừa bí ẩn, vừa mới mẻ lạ lủng làm mê hoặc lòng người. Với tâm hồn hào hoa, nghệ sĩ đặc biệt nhạy cảm với cái đẹp, người lính Tây Tiến say đắm chiêm ngưỡng và cảm nhận những hình ảnh rực rỡ, những âm thanh ngọt ngào của đêm lửa trại để được thả hồn phiêu diêu, bay bổng trong thế giới mộng mơ, để xây “hồn thơ”.

Trong dòng chảy miên viễn của thời gian, những hoài niệm bỗng lắng lại thật sâu ở một buổi chiều sương mộc:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Những nét vẽ mềm mại, tinh tế đã tạo nên một bức tranh thuỷ mặc với hồn lau bến nách, hơi sương giăng mờ mờ ảo ảo cùng con người trên chiếc thuyền độc mộc và cánh hoa trôi trong dòng nước lũ. “Chiều sương” gói trọn không gian phủ một lớp u buồn phảng phất lên cảnh vật. Chữ “ấy” bắt vần với chữ “thấy” làm cho âm điệu câu thơ trĩu nặng xuống như một nốt nhấn, như một sự nhắc nhở trong hoài niệm những bâng khuâng. Chịu sự tác động của nỗi nhớ, những bông hoa lau chập chờn, lay động trên những bến bờ dường như cũng có hồn hơn. Nếu từ láy “đung đưa” gợi hình hơn biểu cảm và chủ yếu gợi tả những cánh hoa rập rờn đôi bờ sông thì hình ảnh “hoa đong đưa” không dừng lại ở nét nghĩa cụ thể ấy mà còn đưa đến những liên tưởng thi vị về dáng vẻ dịu mềm, tình tứ của sơn nữ miền Tây, đó là một sáng tạo mới mẻ về ngôn từ thể hiện chất lãng mạn rất đặc sắc của hồn thơ “Quang Dũng.

Bức tranh thiên nhiên trong Tây Tiến đã được Quang Dũng thổi hồn vào cái nồng nàn của cảm xúc, những đường nét ấn tượng về hội hoạ và thanh âm trong trẻo của nhạc tính. Bức tranh ấy chính là nền tuyệt đẹp để người lính Tây Tiến xuất hiện một cách hiên ngang và hùng dũng. Cũng trên cái nền ấy tâm hồn và tài năng của nhà thơ đã được chắp cánh bởi sự say mê trong cảm xúc và tài hoa của nghệ thuật.

Gấp trang sách lại mà những vần thơ của Quang Dũng vẫn văng vẳng để rồi những cảm xúc chân thật nhất của nhà thơ gửi gắm mãi neo động trong tâm hồn con người trở thành một nỗi niềm chung.

Phân tích khổ 2 Tây Tiến – Mẫu 8

Bài thơ được tác giả chia thành 4 đoạn. Đoạn 1 bộc lộ nỗi nhớ những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, dữ dội, hoang sơ. Đoạn 2 là những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong những đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng. Đoạn 3 tái hiện lại chân dung người lính Tây Tiến. Đoạn 4 là lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây. Toàn bài thơ in đậm dấu ấn tài hoa, lãng mạn, phóng khoáng của hồn thơ Quang Dũng. Với tài năng và tâm hồn ấy, Quang Dũng đã khắc hoạ thành công hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội, mĩ lệ.

Trong miền kí ức của Quang Dũng không chỉ có những ngày tháng gian khổ với đèo cao, mưa rừng, thú dữ, sương phủ mà còn có cả ánh sáng hội hè của những đêm liên hoan tưng bừng và những buổi chiều êm ả, mông lung.

Đoạn thơ thứ hai mở ra một thế giới khác của miền Tây:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu , nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Cảnh một đêm liên hoan văn nghệ của những người lính Tây Tiến có đồng bào địa phương đến góp vui được miêu tả bằng những chi tiết rất thực mà cũng rất thơ mộng. Từ “bừng lên” kết hợp với hình ảnh đẹp “ đuốc hoa” miêu tả không khí sôi nổi, cả doanh trại bừng sáng, lung linh ánh lửa đuốc khi đêm văn nghệ bắt đầu. Tiếng reo “kìa em xiêm áo tự bao giờ” thể hiện sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên, say mê, vui sướng của các anh lính Tây Tiến trước vẻ lộng lẫy bất ngờ của các cô gái nơi núi rừng. Các cô gái chính là trung tâm, là linh hồn của đêm hội có vẻ đẹp e thẹn, tình tứ, mềm mại, duyên dáng trong một vũ điệu đậm màu sắc xứ lạ “ man điệu” đã thu hút hồn vía của các chàng trai Tây Tiến. Không khí của đêm liên hoan còn ngây ngất hơn bởi tiếng khèn rạo rực, réo rắt khiến cho cả con người, cảnh vật như bốc men say, trở nên phong phú, sinh động như muốn “ xây hồn thơ” lãng mạn. Đây cũng chính là tâm hồn hào hoa, tinh tế của Quang Dũng.

Nếu cảnh đêm liên hoan đem đến cho người đọc không khí háo hức thì cảnh sông nước miền Tây lại gợi lên cảm giác mênh mang, mờ ảo:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

Ngòi bút của Quang Dũng không tả mà chỉ gợi. Những hình ảnh “ chiều sương ấy” , “hồn lau” , “ nẻo bến bờ” , “ hoa đong đưa” kết hợp với cách hỏi “ có thấy” , “ có nhớ” mở ra một khung cảnh buổi chiều sương trong kí ức. Sương mờ giăng mắc khắp không gian , bến bờ lặng lẽ hoang dại , trên sông xuất hiện một dáng người mềm mại , uyển chuyển của cô gái Thái trên chiếc thuyền độc mộc, những bông hoa rừng đong đưa làm duyên trong dòng nước. Cảnh như có hồn , có sự thiêng liêng của núi rừng , đậm màu sắc cổ tích và huyền thoại. Qua những nét vẽ hư ảo trên , ta như thấy trước mắt mình một bức tranh sơn thuỷ hữu tình mang dấu ấn của một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, lãng mạn, tài hoa, vô cùng yêu mến, gắn bó với mảnh đất miền tây-tâm hồn Quang Dũng. Đồng thời ta cũng cảm nhận được tâm hồn rung động của các chiến sĩ Tây Tiến trước cái đẹp.

Trong hai đoạn thơ sau, nhà thơ không miêu tả cảnh thiên nhiên nữa mà tập trung vào khắc hoạ chân dung người lính tây tiến và nỗi nhớ miền tây bằng những nét vẽ khoẻ khoắn, mạnh bạo, gân guốc đạm chất bi tráng.

Tám câu thơ của khổ hai đã vẽ nên khung cảnh thiên nhiên, con người miền tây với vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng, trữ tình. Chất nhạc, chất hoạ, chất mơ mộng hoà quyện chặt chẽ với nhau trong đoạn thơ tạo nên một thế giới của cái đẹp. Từng nét vẽ của Quang Dũng đều mềm mại, tinh tế, uyển chuyển. Đây là đoạn thơ bộc lộ rõ nhất sự tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng trong tổng thể bài thơ.

Phân tích khổ 2 Tây Tiến – Mẫu 9

“Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn”

Như Chế Lan Viên đã viết, lòng thương nhớ luôn dạt dào nơi trái tim khi ta đủ yêu, đủ gắn bó. Nhà thơ Quang Dũng cũng từng gắn bó với Tây Bắc, từng “súng bên súng, đầu sát bên đầu” với những người đồng đội và chính những yêu thương đã khơi nguồn nỗi nhớ, thôi thúc ông viết lên bài thơ Tây Tiến với những kỉ niệm đẹp hiện lên lung linh qua khổ thơ thứ hai.

Đến khổ thơ thứ hai ký ức một thời trận mạc đã trở thành hành trang của người lính Tây Tiến. Kỉ niệm khó quên nhất có lẽ là những đêm liên hoan lửa trại:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Đêm hội dường như thêm vui vẻ, ấm áp và quyến rũ, say lòng người khi có “em” đang yểu điệu, thướt tha , e ấp, dịu dàng. Đoạn thơ vẽ lên bức tranh đêm hội đuốc hoa thật vui vẻ ,ấm áp. Nếu Mai Châu có hương vị cơm nếp thật hấp dẫn,…thì Châu Mộc khoác lên vẻ mộc mạc mà đậm chất thơ:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Bốn câu thơ theo dòng hồi tưởng “trôi” về miền đất lạ, đó là Châu Mộc với nét đẹp hoang sơ của nó đã trở thành mảnh tình trong tâm hồn của bao người.

“Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn”

(Chế Lan Viên)

Nỗi nhớ kéo dài để lòng người nặng những hoài niệm, nặng những chơi vơi. Hoa đong đưa” là hoa rừng đong đưa làm duyên trên dòng nước hay cô gái miền Tây Bắc xinh đẹp trên dòng suối? Thuở ấy, núi rừng Tây Bắc thật hoang sơ nhưng trong cái hoang sơ lại thật nên thơ và lãng mạn của cảnh và người . Bức tranh chiều sương Châu Mộc và đêm hội đuốc hoa như một bức tranh sơn mài của một danh họa mang vẻ đẹp màu sắc vừa cổ điển vừa hiện đại.

Nhà thơ Quang Dũng đã vô cùng thành công với tác phẩm Tây Tiến đặc biệt khi khắc họa tượng đài những chiến binh hào hoa, dũng cảm, lãng mạn đã ghi dấu thật sâu trong trái tim bạn đọc.

“Anh vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế !”

(Tố Hữu)

Phân tích khổ 2 Tây Tiến – Mẫu 10

Voltaire từng nói: “ Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm”, thơ ca phản ánh chân thực tâm tư tình cảm người nghệ sĩ. Bởi vậy, ta có dịp bắt gặp tiếng lòng nhà thơ Quang Dũng gửi nỗi nhớ niềm thương gửi tới Tây Tiến trong bài thơ cùng tên. Khổ thơ bốn kết tinh nỗi niềm và tài năng của nhà thơ:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp cam go, thơ văn trở thành vũ khí tinh thần, động viên ý chí chiến đấu, lòng yêu nước của nhân dân ta. Giữa những năm tháng ác liệt đó, năm 1948, khi nhà thơ Quang Dũng được lệnh chuyển đơn vị căn cứ đến đơn vị khác. Hình ảnh làng Phù Lưu Chanh- nơi đã gắn bó với cuộc đời người lính trở thành nỗi ám ảnh trong hồn thơ tác giả. Nỗi nhớ về một thời đã sống với đoàn quân Tây Tiến chắp cảm hứng bay bổng cho lời thơ tuôn trào.

Nỗi nhớ chảy tràn trong từng câu thơ, nhà thơ bâng khuâng buổi sinh hoạt ở doanh trại lính giữa rừng núi Tây Bắc. Hình ảnh đêm liên hoan mở ra ngập tràn với ánh sáng hoa lửa:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa”

Cụm từ “ đuốc hoa” không chỉ là hình ảnh thực về ánh lửa đuốc mà còn gợi cái nhìn lãng mạn của chàng trai trẻ tuổi, trẻ lòng, cảm nhận ánh lửa tươi sáng, rạng ngời, lung linh. Vầng sáng gọi về không gian ấm áp, ảo huyền xua tan cái lạnh lẽo, âm u của nơi rừng thiêng nước độc. Hình ảnh độc đáo cũng xa xôi gợi liên tưởng về lễ hợp cẩn lứa đôi êm đềm. Chi tiết gợi tình quân dân cá nước nồng nàn, say đắm. Không khí nơi doanh trại đông vui tựa đêm hội hoa đăng để những chàng trai, thiếu nữ sơn thôn mở hội lòng. Kết hợp với động từ “ bừng” đậm tô ánh đuốc bừng sáng không gian, mang lại niềm vui tươi mới, gọi dậy một miền kỉ niệm trong sâu thẳm tâm trí nhân vật trữ tình.

Giữa đêm hội tưng bừng, náo nhiệt, hình ảnh mộng mơ của bóng dáng những cô em làm xao xuyến trái tim những chàng lính trẻ:

“Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Từ hán việt “ xiêm áo” khắc họa nét lộng lẫy, rực rỡ của y phục những cô gái vùng cao, dưới ánh lửa càng trở nên kín đáo, tình tứ, dễ mến. Câu từ gần gũi như bước từ trang đời vào trang thơ, làm sống động một trời kí ức. Người lính Tây Tiến xuất thân là những chàng trai mới dời ghế nhà trường, đến từ Hà thành ngàn năm văn hiến. Nay các anh đặt chân đến nơi rừng lạ núi xa, chứa đầy bí ẩn, làm sao tránh khỏi giây phút ngỡ ngàng trước sắc đẹp bình dị của những sơn thôn nơi đây. “ Kìa em” là lời thốt lên tự nhiên, phản ánh cái nhìn mê đắm, hóm hỉnh, trẻ trung, đậm chất lính.

Giọng điệu nhẹ nhàng, sôi nổi, gợi hình ảnh người lính đắm say trong khung cảnh đậm chất trữ tình, ngân vang tiếng khèn bay bổng và trước điệu nhảy quyến rũ, gọi mời trong đêm hoa đăng lộng lẫy. Đọc thơ Quang Dũng quả thực như ngậm nhạc, câu thơ mang nhạc điệu hài hòa, lôi cuốn bạn đọc cùng đắm say. Những nét phong tục, văn hóa vùng núi mới mẻ, cuốn hút trong cái nhìn của những anh lính. Hữu cảnh sinh tình, không gian là chất xúc tác biến người chiến sĩ thành người thi sĩ. Nàng thơ của các anh là cái đẹp duyên dáng của sơn nữ miền sơn cước, yêu kiều. Dừng chân trên chặng đường hành quân gập ghềnh, cheo veo, những đêm hội đông vui thể hiện tinh thần lạc quan, nét hòa hoa, yêu đời của họ.

Khổ thơ bốn giúp ta có cái nhìn trọn vẹn hơn về tâm hồn người lính Tây Tiến. Họ không chỉ mang hào hùng, bất khuất trước gian khó, nhà thơ khám phá những nét tâm tư rất đời của các anh. Nơi đó, hiện lên trái tim rung động, xao xuyến trước vẻ đẹp của thiên nhiên, cô em sơn thôn. “ Tây Tiến” trở về vẹn nguyên, sinh động bởi hình ảnh đó luôn thường trực trong tâm trí nhà thơ Quang Dũng. Nét bút đa tài của tác giả cùng nỗi nhớ chân thành còn lưu lại dư âm trong lòng bạn đọc.

Phân tích đoạn 2 Tây Tiến – Mẫu 11

Quang Dũng là nhà thơ – chiến sĩ, từng cầm súng đánh giặc và làm thơ thời kháng chiến chống Pháp. Năm 1948, tại Phù Lưu Chanh (Hà Tây cũ), ông viết bài thơ “Tây Tiến” nói lên tình thương nhớ chiến trường miền Tây, nhớ đồng đội thân yêu một thời trận mạc. Mở đầu bài thơ là một lời nhắn gọi biết bao thiết tha bồi hồi:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi với”.

Bài thơ có 34 câu thơ thất ngôn, chia thành 4 đoạn, mỗi đoạn thơ là sự hồi tưởng bao kỉ niệm sâu sắc. Đây là đoạn thơ thứ hai có 8 câu mang vẻ đẹp như một bài hành nói về 2 nỗi nhớ: nhớ hội đuốc hoa và nhớ chiều sương Châu Mộc:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.

Từ “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói – Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”, Quang Dũng nhớ đến “hội đuốc hoa” thắm thiết tình quân dân:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.

Đuốc hoa là cây nến thắp lên trong phòng tối tân hôn. “Truyện Kiều” có câu: “Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa”(3096). Quang Dũng sáng tạo thành “hội đuốc hoa” để nói về đêm liên hoan lửa trại giữa các cán bộ chiến sĩ đoàn binh Tây Tiến với đồng bào các bản mường. Chữ “bừng” vừa chỉ ánh lửa, ánh đuốc sáng bừng lên, vừa tả âm thanh tiếng nói, tiếng cười, tiếng hát, tiếng khèn vang lên tưng bừng rộn rã trong hội đuốc hoa. Đêm lửa trại, đêm liên hoan chắc là có múa sạp, có múa xòe của các cô gái Mường, cô gái Thái tham gia? Chữ “kìa” là đại từ để trỏ một đối tượng (người, vật) từ xa; trong văn cảnh thể hiện sự ngạc nhiên, niềm vui thích, tình tứ của chàng lính trẻ Tây Tiến khi nhìn thấy các “em”, các “nàng” đến dự hội đuốc hoa trong bộ xiêm áo xinh đẹp. Hình ảnh “nàng e ấp” là một nét vẽ tài hoa và có hồn đã gợi tả vẻ đẹp duyên dáng, kín đáo, tình tứ của các thiếu nữ miền Tây. Ánh lửa, tiếng hát, tiếng khèn, màu xiêm áo rực rỡ, vẻ đẹp kiều diễm của các “em”, các “nàng” như đã “xây hồn thơ” các chàng lính trẻ. Con người thì trẻ chung, xinh đẹp, hào hoa, đa tình; ngòi bút của thi nhân cũng rất tài hoa, lãng mạn. Qua hội đuốc hoa, ta càng thấy đời sống tinh thần vô cùng phong phú của đoàn binh Tây Tiến nơi chiến trường miền Tây gian khổ ác liệt.

Bốn câu thơ tiếp theo dòng hồi tưởng “trôi” về một miền đất lạ, đó là Châu Mộc thuộc tỉnh Sơn La, nơi có những bãi cỏ bát ngát mênh mông, nơi có dãy núi Pha Luông cao 1880m, nơi có bản Pha Luông sầm uất của người Thái. Quang Dũng người lính chiến với tâm hồn thi sĩ đã khám phá ra bao vẻ đẹp kì thú miền Châu Mộc. Năm tháng đã trôi qua, cảnh và người miền đất lạ ấy đã trở thành một mảnh tâm hồn của bao người:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.

“Chiều sương ấy” là chiều thu 1947. Sương trắng phủ mờ núi rừng chiến khu chiều thu ấy in đậm hồn người; hoài niệm càng trở nên mênh mang. Chữ “ấy” câu trên bắt vần với chữ “thấy” câu dưới tạo nên một vần lưng giàu âm điệu, như một tiếng khẽ hỏi “có thấy” cất lên trong lòng. Hồn lau là hồn mùa thu. Hoa lau nở trắng cờ, lá lau kêu xào xạc trong gió thu “nẻo bến bờ”, nơi bờ sông bờ suối. Với tâm hồn thi sĩ tài hoa, Quang Dũng đã cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Châu Mộc qua cảnh sắc “chiều sương” và “hồn lau nẻo bến bờ”. Những thi liệu ấy đã tạo nên vẻ đẹp cổ điển bức tranh suối rừng nơi miền đất lạ. Thấp thoáng trong vần thơ “Tây Tiến” là những câu cổ thi tuyệt bút:

“Sương đầu núi buổi chiều như dội,
Nước lòng khe nẻo suối còn sâu…”

(Chinh phụ ngâm)

Các thi sĩ xưa nay vẫn gọi hồn thu là hồn lau:

“Ngàn lau cười trong nắng
Hồn của mùa thu về
Hồn mùa thu sắp đi
Ngàn lau xao xác trắng”.

(Lau mùa thu – Chế Lan Viên)

Điệp ngữ “có thấy” và “có nhớ” làm cho hoài niệm về chiều sương Châu Mộc thêm phần man mác, bâng khuâng. Nhớ cảnh rồi nhớ đến người. Trong chia phôi còn “có nhớ”. “Có nhớ” con thuyền độc mộc và “dáng người” chèo thuyền độc mộc? “Có nhớ” hình ảnh “hoa đong đưa”trên dòng nước lũ? “Hoa đong đưa” có phải là hoa rừng “đong đưa” làm duyên trên dòng nước lũ như giáo sư Phan Cự Đệ đã nói? Hay “Hoa đong đưa” là hình ảnh ẩn dụ gợi tả các cô gái miền Tây xinh đẹp lái thuyền độc mộc duyên dáng, uyển chuyển như những bông hoa rừng đang “đong đưa” trên sông suối. Bài hát “Sơn nữ ca” của nhạc sĩ Trần Hoàn, “Nụ cười sơn cước” của nhạc sĩ Tô Hải cho ta cảm nhận ấy. Phải có “tay lái ra hoa” mới có thể “đong đưa” được như vậy.

Những dòng hồi tưởng trên đây về cảnh sắc và con người nơi suối rừng miền Tây, nơi cao nguyên Châu Mộc đã được thể hiện một cách tuyệt đẹp qua bút pháp tài hoa và hồn thơ lãng mạn. Thuở ấy, núi rừng Tây Bắc vô cùng hoang vu, là chốn rừng thiêng liêng nước độc, nhưng Quang Dũng với tâm hồn lạc quan và yêu đời của một khách chinh phu thời đại mới đã cảm nhận và phát hiện bao vẻ đẹp thơ mộng, xinh tươi của cảnh sắc thiên nhiên và con người Tây Bắc.

Hoài niệm, kỉ niệm về chiến trường núi rừng miền Tây như được chắt lọc qua tâm hồn. Nhà thơ có gắn bó với cảnh vật và con người Tây Bắc, có vào sinh ra tử với đồng đội mới có kỉ niệm đẹp và sâu sắc như vậy, mới có thể viết nên những vần thơ sáng giá như thế.

Bức tranh chiều sương Châu Mộc và hội đuốc hoa như một bức tranh sơn mài của một danh họa mang vẻ đẹp màu sắc cổ điển và lãng mạn kết hợp hài hòa với tính thời đại và hiện đại trong máu lửa chiến tranh.

…………..

]]>
Cách đăng ký thành viên Violympic để tham gia giải toán trên mạng https://0222801001.com.tw/cach-dang-ky-thanh-vien-violympic-de-tham-gia-giai-toan-tren-mang/ Tue, 12 Sep 2023 12:24:15 +0000 https://0222801001.com.tw/?p=5976

Hướng dẫn đăng ký thành viên Violympic để tham gia giải toán trên mạng

Bước 1: Tại giao diện chính của trang chủ Violympic hãy nhấn chọn nút Đăng ký tài khoản ở góc trên bên phải màn hình.

Giao diện trang chủ của Violympic

Bước 2: Sau đó sẽ xuất hiện giao diện đăng ký tài khoản mới, hãy điền đầy đủ thông tin theo mẫu, những trường có ký hiệu * bắt buộc phải nhập đầy đủ.

Lưu ý:

  • Tài khoản: Có thể dùng số, chữ cái viết liền không dấu (tên tài khoản của tất cả các thành viên phải khác nhau.
  • Mật khẩu: Khi gõ nên để ở chế độ gõ tiếng Anh.
Giao diện đăng ký tài khoản mới

 

 

Bước 3: Tiếp theo chọn đối tượng là Học sinh hoặc Giáo viên. Sau đó nhập tiếp:

  • Địa chỉ: Địa chỉ nơi bạn đang học.
  • Trường: Chọn tên trường, khối, lớp đang học để tham gia thi. Bạn chọn khối nào thì sẽ được thi ở khối đó.
  • Ngày sinh: Chọn ngày tháng năm sinh của bạn.
  • Mã bảo vệ: Nhập mã xác nhận ở ô bên cạnh vào.
Nhập thông tin cá nhân theo yêu cầu
Nhập thông tin cá nhân theo yêu cầu

Bước 4: Sau khi điền đầy đủ thông tin, tích chọn vào ô Tôi đồng ý với các quy định của Violympic, rồi nhấn nút Đăng ký.

Chấp nhận điều khoản và nhấn nút Đăng ký
Chấp nhận điều khoản và nhấn nút Đăng ký

Bước 5: Nếu điền đúng tất cả thông tin sẽ xuất hiện thông báo “Bạn đã đăng ký thành công”. Còn nếu có thông tin nào đó không hợp lệ, bạn sẽ được yêu cầu chọn lại.

Chú ý: Khi gặp thông báo “Tên đăng nhập đã tồn tại”, bạn cần đặt lại tên khác. Tốt nhất nên lấy tên đăng nhập có chứa ngày tháng năm sinh hoặc số điện thoại nhà để tránh trùng lặp, bởi hiện nay có rất nhiều người đăng nhập trùng tên với bạn nên không tránh khỏi tên đã tồn tại.

Bước 6: Khi đăng ký thành công bạn sẽ thấy ở góc trên bên phải màn hình xuất hiện tên đăng nhập, kèm ID ở ngay bên dưới. Bây giờ, bạn có thể bắt đầu vào thi giải toán trực tuyến qua mạng được rồi nha.

Giao diện trang cá nhân sau khi đăng nhập Violympic
]]>
Hướng dẫn cách đăng nhập IOE thi tiếng Anh trực tuyến https://0222801001.com.tw/huong-dan-cach-dang-nhap-ioe-thi-tieng-anh-truc-tuyen/ Mon, 11 Sep 2023 14:35:32 +0000 https://0222801001.com.tw/?p=5957

Cuộc thi tiếng Anh IOE sẽ chính thức trở lại khi năm học mới bắt đầu, ứng dụng thi tiếng Anh IOE được các trường đưa vào như một cuộc thi chính thức ở cấp tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông để giao lưu, trau dồi kiến thức môn tiếng Anh trong trường học.

Để tham gia cuộc thi IOE các em cần phải tạo tài khoản IOE và tiến hành đăng nhập vào hệ thống để sẵn sàng cho cuộc thi tiếng Anh trực tuyến. Cuộc thi tiếng Anh IOE là một trong những cuộc thi tiếng Anh hot nhất dành cho học sinh, đây chính là cơ hội để học sinh các trường có thể học hỏi lẫn nhau để giành được vị trí cao nhất của bộ môn tiếng Anh trong nhà trường. Dưới đây là hướng dẫn chi tiết cách đăng nhật IOE để thi tiếng Anh trực tuyến.

Cách đăng nhập IOE để thi tiếng Anh Online

Bước 1 : Tải ứng dụng IOE trên cửa hàng play.

Bước 2: Tại giao diện trang chủ IOE, nhấp vào Đăng nhập ở góc trên cùng bên phải màn hình để đến với trang Đăng nhập của hệ thống IOE.

Giao diện chính của website IOE

Bước 3: Sau khi cửa sổ Đăng nhập xuất hiện, bạn hãy điền tên tài khoản và mật khẩu vào, rồi nhấn Đăng nhập. Nếu muốn ghi nhớ đăng nhập cho lần sau thì tích chọn vào ô Ghi nhớ đăng nhập. Ngoài ra, bạn còn có thể đăng nhập ứng dụng thông qua tài khoản FacebookGoogle+ hay Yahoo.

Giao diện đăng nhập hệ thống IOE

Bước 4: Sau khi đăng nhập IOE thành công, bạn có thể thoải mái tham gia 29 vòng thi hệ thống, theo dõi kết quả thi của mình cũng như xem thống kê một cách dễ dàng.

Chỉ với vài bước đơn giản như vậy là bạn đã có thể đăng nhập IOE thành công rồi, bây giờ hãy thử sức chính mình để thông qua 29 vòng thi ngay thôi nào!. Chúc bạn thành công hihi!.

]]>
Văn mẫu lớp 9: Nghị luận xã hội về lòng biết ơn – Sơ đồ tư duy https://0222801001.com.tw/van-mau-lop-9-nghi-luan-xa-hoi-ve-long-biet-on-so-do-tu-duy/ Tue, 29 Aug 2023 02:38:51 +0000 https://0222801001.com.tw/?p=5874

 

Sơ đồ tư duy Nghị luận về lòng biết ơn

Sơ đồ tư duy Nghị luận về lòng biết ơn

 

 

Dàn ý nghị luận về lòng biết ơn

1. Mở bài

Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: đạo lí của lòng biết ơn.

Lưu ý: Học sinh tự lựa chọn cách dẫn trực tiếp hoặc gián tiếp tùy thuộc vào khả năng của mình.

2. Thân bài

a. Giải thích

Biết ơn: cảm kích, trân trọng và có hành động báo đáp trước những hành động, việc làm tốt đẹp hoặc sự giúp đỡ của người khác dành cho mình.

b. Phân tích

• Biểu hiện của lòng biết ơn:

  • Nói “cảm ơn”, trân trọng những việc làm của người khác đối với mình khiến bản thân mình tốt hơn.
  • Giúp đỡ lại người khác ngay khi có thể, sống chan hòa với mọi người, không so đo, đố kị với bất kì ai.
  • Khi nhận ơn nghĩa của người khác thì biết truyền tải đi những thông điệp tốt đẹp.

• Lợi ích, ý nghĩa của lòng biết ơn:

  • Việc nhận ơn nghĩa từ người khác khiến cho cuộc sống của chúng ta trở nên tốt đẹp hơn, vượt qua được những khó khăn trước mắt, từ đó sống tốt hơn.
  • Mỗi con người sống với lòng biết ơn thì xã hội sẽ trở nên tốt đẹp hơn, giàu tình cảm hơn và gắn bó với nhau nhiều hơn.
  • Lòng biết ơn giúp chúng ta rèn luyện những đức tính tốt đẹp khác, truyền tải những thông điệp tích cực ra xã hội.

c. Chứng minh

Học sinh tự lấy dẫn chứng về những người có lòng biết ơn để minh họa cho bài làm văn của mình.

 

 

Lưu ý: dẫn chứng phải nổi bật, tiêu biểu và xác thực, được nhiều người biết đến.

Gợi ý: các học sinh của cụ giáo Chu Văn An dù trưởng thành và có địa vị trong xã hội vẫn không quên ơn nghĩa dạy dỗ của thầy, vào ngày mừng thọ thầy, họ vẫn tề tựu đông đủ, kính cẩn với thầy.

d. Phản biện

Trong cuộc sống vẫn còn có nhiều người lạnh lùng vô cảm, nhận được sự giúp đỡ, ơn nghĩa của người khác nhưng ngoảnh mặt làm ngơ hoặc đứng nhìn người khác gặp hoàn cảnh khó khăn mà không giúp đỡ,… những người này đáng bị xã hội thẳng thắn phê phán.

3. Kết bài

Khái quát lại vấn đề nghị luận: đạo lí của lòng biết ơn.

Rút ra bài học, liên hệ thực tiễn đến bản thân mình.

Đoạn văn nghị luận về lòng biết ơn

Trong cuộc sống, lòng biết ơn có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự hoàn thiện và phát triển nhân cách con người. Lòng biết ơn là tấm lòng tri ân, luôn ghi nhớ công ơn nuôi dạy, giúp đỡ của người khác với mình. Lòng biết ơn được biểu hiện ở cả trong suy nghĩ lẫn những hành động từ cụ thể đến lớn lao. Đó là suy nghĩ, thái độ trân trọng, kính mến, là hành động trả ơn, báo đáp công ơn của bản thân với những người có ơn với mình. Cụ thể, đất nước Việt Nam đã thể hiện lòng biết ơn của mình bằng những ngày lễ mang tính chất kỉ niệm, tưởng nhớ, ví dụ như ngày 20/11 là ngày để tất cả thế hệ học sinh cả nước tri ân đối với công lao dạy dỗ của thầy cô giáo, ngày 27/7 là ngày ghi nhớ công lao của thương binh liệt sĩ – những người đã hy sinh máu xương, cuộc đời của mình để bảo vệ Tổ quốc… Lòng biết ơn có ý nghĩa vô cùng thiêng liêng và là sợi dây để gắn bó tình cảm giữa người với người. Tuy nhiên, trong xã hội hiện nay, có rất nhiều người đi ngược lại với truyền thống đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, có thái độ và hành động vô ơn, “ăn cháo đá bát”. Những hành vi này đều đáng bị lên án để họ có thể nhận thấy lỗi sai, từ đó thay đổi nhận thức, suy nghĩ một cách tích cực nhất.

 

 

Nghị luận xã hội về lòng biết ơn

“Sống, trong đời sống, cần có một tấm lòng. Để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi…” nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết ra những lời hát vô cùng ý nghĩa để khuyên nhủ mỗi con người sống có ích hơn. Bên cạnh việc sống có ích, mỗi chúng ta cần sống với lòng biết ơn, uống nước nhớ nguồn.

Lòng biết ơn từ lâu đã trở thành một phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam ta và được răn dạy, thể hiện qua nhiều câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ khác nhau. Lòng biết ơn là sự cảm kích, trân trọng và có hành động báo đáp trước những hành động, việc làm tốt đẹp hoặc sự giúp đỡ của người khác dành cho mình. Lòng biết ơn được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau như: người sau nhớ ơn công lao của thế hệ đi trước, con cái biết ơn cha mẹ, người được giúp đỡ mang ơn những mạnh thường quân,… lòng biết ơn luôn tồn tại trong cuộc sống này và lan tỏa vô cùng tốt đẹp.

Lòng biết ơn được biểu hiện bằng hành động thiết thực của con người. Chúng ta biết nói “cảm ơn” khi được người khác giúp đỡ, trân trọng những việc làm của người khác đối với mình khiến bản thân mình tốt hơn. Bên cạnh đó, việc chúng ta giúp đỡ lại người khác ngay khi có thể, sống chan hòa với mọi người, không so đo, đố kị với bất kì ai cũng là một cách lan tỏa thông điệp lòng biết ơn. Việc sống với lòng biết ơn mang lại những lợi ích và ý nghĩa quan trọng đối với mỗi con người. Việc nhận ơn nghĩa từ người khác khiến cho cuộc sống của chúng ta trở nên tốt đẹp hơn, vượt qua được những khó khăn trước mắt, hướng đến tương lai, giá trị bền vững, lâu dài. Mỗi con người sống với lòng biết ơn thì xã hội sẽ trở nên tốt đẹp hơn, giàu tình cảm hơn và gắn bó với nhau nhiều hơn. Bên cạnh đó, lòng biết ơn giúp chúng ta rèn luyện những đức tính tốt đẹp khác, truyền tải những thông điệp tích cực ra xã hội.

Tuy nhiên, trong cuộc sống hiện nay vẫn còn có nhiều người lạnh lùng vô ơn, nhận được sự giúp đỡ, ơn nghĩa của người khác nhưng ngoảnh mặt làm ngơ hoặc đứng nhìn người khác gặp hoàn cảnh khó khăn mà không giúp đỡ. Lại có những người tuy có điều kiện nhưng lại khoanh tay đứng nhìn, không giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn… những người này đáng bị xã hội thẳng thắn phê phán.

 

 

Mỗi người chỉ được sống một lần, chúng ta hãy sống với lòng biết ơn, yêu thương và trân trọng mọi người để làm cho xã hội này ngày càng tốt hơn, con người được sống tình cảm hơn vì vốn dĩ: “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”.

Nghị luận xã hội về lòng biết ơn hay

Lòng biết ơn từ lâu đã là truyền thống quý báu nhất của nhân dân Việt Nam nói riêng và cả nhân loại nói chung. Xuất hiện trong ca dao, tục ngữ hay những bài thơ, câu chuyện kể,…, giá trị đạo đức tốt đẹp này đã đi sâu, gắn liền với cuộc sống.

Lòng biết ơn là sự ghi nhớ, cảm kích, trân trọng và báo đáp dành cho những người đã từng hỗ trợ, giúp đỡ mình. Trong cuộc sống, ai cũng ít nhất một lần nhận được sự giúp đỡ từ người xung quanh. Điều này giúp cuộc sống của ta bớt gian truân hơn, mọi khó khăn trở nên dễ chinh phục hơn. Vậy nên ta cần ghi nhớ, biết ơn họ.

Lòng biết ơn được thể hiện dưới nhiều dạng hình thức, từ suy nghĩ, lời nói đến hành động. Điều cốt yếu ở đây là ta cần thực sự đặt cái “tâm”, đặt sự chân thành vào việc báo đáp người khác chứ không nên làm qua loa, chống đối. Đó có thể đơn giản là lời cảm ơn khi có bạn cho mượn bút, có người qua đường nhắc ta đóng ba-lô,… Ngày nay, con người vẫn còn giữ truyền thống bày tỏ lòng biết ơn với tổ tiên qua việc cúng bái, lễ Tết. Hay rất nhiều ngày lễ được tổ chức để vinh danh, tri ân những tập thể, cộng đồng có công với xã hội như ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11, ngày Quốc tế phụ nữ 8-3, ngày Thầy thuốc Việt Nam 27-2,…

Lòng biết ơn mang đến rất nhiều ý nghĩa cho con người. Đây là một trong những đạo lí truyền thống, thể hiện rõ giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta. Nhờ đó mà con cháu đời sau biết ghi nhớ công lao dựng nước và giữ nước của bao thế hệ cha anh. Lòng biết ơn còn được dùng để nhắc nhở con người về vai trò của quê hương, gia đình. Điều này giúp ta hoàn thiện bản thân, trưởng thành hơn trong cuộc sống. Ngoài ra, đó còn khiến cho các mối quan hệ bền chặt, thân thiết hơn mỗi ngày.

Trên thực tế, bên cạnh những con người chuẩn mực, luôn “biết trước biết sau” thì vẫn còn trường hợp sống vô ơn, bạc nghĩa. Những kẻ này sẵn sàng vì lợi ích cá nhân mà chà đạp lên người khác, phản bội lại người đã từng giúp đỡ, cưu mang mình. Đó là sự ích kỉ, tham lam, bất nghĩa, xứng đáng bị lên án, chê trách. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến các mối quan hệ xã hội mà còn khiến chính bản thân kẻ đó trở nên lạc lõng, tách biệt với cộng đồng.

Việc rèn cho mình lối sống ơn nghĩa không chỉ giúp ta nhận được sự tôn trọng của người khác mà còn mang đến vô vàn điều ý nghĩa cho chính bản thân. Hãy sống một cách chuẩn mực như ông cha đã răn dạy: “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.

 

 

Nghị luận về lòng biết ơn ngắn gọn

Nghị luận về lòng biết ơn – Mẫu 1

Để cuộc sống bình yên và hạnh phúc, mỗi ngày mở mắt ra chúng ta hãy thấy biết ơn cuộc đời vì mình vẫn còn mạnh khỏe, biết ơn vì mình còn được cống hiến, có được một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Khi ta thấy biết ơn, cuộc sống này sẽ trở nên đáng sống hơn, tốt đẹp hơn.

Từ đây chúng ta có thể khẳng định: biết ơn có vai trò vô cùng quan trọng đối với cuộc sống con người. Biết ơn là việc chúng ta trân trọng những thứ bản thân mình đang có, đang được hưởng, là thái độ cảm kích, trân trọng trước những hành động, những việc tốt đẹp mà người khác làm cho mình.

Bên cạnh đó, biết ơn còn là sự đền đáp trước sự giúp đỡ của người khác cũng như những thế hệ đi trước đã có công ơn với tổ quốc. Biết ơn là một truyền thống tốt đẹp của ông cha ta từ xưa đến nay, chúng ta phải có ý thức học tập, giữ gìn và noi theo truyền thống này. Nếu không có những sự hi sinh của thế hệ cha anh đi trước thì chúng ta không thể có được một đất nước hòa bình, hạnh phúc như hiện nay. Nếu không có sự cống hiến ngày đêm của những người hiền tài thì đất nước không thể phát triển, cuộc sống không thể no đủ như hiện nay. Và trong khi chúng ta đang say giấc thì ngoài kia còn bao con người nỗ lực làm việc, cũng bao nhiêu con người lâm vào cảnh khốn cùng, khổ đau.

Chính vì thế, hãy biết ơn vì ta có được một cuộc sống hòa bình, biết ơn vì ta được sống trong no đủ, biết ơn vì cuộc sống ta vẫn bình thản, êm đềm. Vì đó là những điều tốt đẹp mà chúng ta được hưởng khi chưa cần phải nỗ lực, cố gắng làm bất cứ điều gì.

Từ lòng biết ơn đó, hãy sống có ích hơn, hãy vươn lên, cống hiến, tiếp nối những truyền thống vẻ vang của thế hệ cha ông đi trước để làm cho nước nhà thêm giàu đẹp, văn minh và tiến bộ hơn. Một lần được sống trong đời, hãy ghi lại những dấu ấn tốt đẹp để con cháu mai sau có thể nhìn theo ta, lấy ta làm tấm gương để chúng học tập và noi theo.

Nghị luận về lòng biết ơn – Mẫu 2

Không phải tự nhiên mà Amburgh đã phải khẳng định chắc chắn rằng: “Không có kẻ nào bần cùng, thiếu thốn bằng những người không có lòng biết ơn”. Thế mới biết lòng biết ơn trong cuộc sống này có ý nghĩa biết nhường nào đối với mối quan hệ người – người.

Ngay từ khi sinh ra, nếu đã là con người thì ai cũng phải mang trong mình lòng biết ơn cha mẹ – đấng sinh thành đã cưu mang cho ta có mặt trên cuộc sống tươi đẹp này, cất công chăm sóc, nuôi dưỡng ta lớn khôn từng ngày, dạy ta cất tiếng nói đầu tiên, chập chững những bước đầu đời. Lớn lên khi đến trường, ta lại biết ơn thầy cô đã truyền đạt tri thức, dạy cho ta những bài học đạo lý làm người, dìu dắt ta trở thành con người có ích trong cuộc sống. Cuộc sống bình yên ngày hôm nay đánh đổi bằng biết bao xương máu của ông cha, gợi nhắc ta niềm biết ơn. Cuộc sống thú vị với những thành tựu khoa học kĩ thuật, những sáng tạo nghệ thuật, đánh đổi bằng công sức lao động của bao người, gợi nhắc ta niềm biết ơn. Tất cả mọi thành quả trên đời không phải tự nhiên mà có, ta lại đang được thụ hưởng những thành quả ấy, lẽ nào ta không mảy may biết ơn một chút nào?

“Uống nước” phải nhớ về “nguồn”, đó là truyền thống quý báu của dân tộc ta từ xưa đến nay. Thừa hưởng truyền thống đạo lý tốt đẹp đó, chúng ta cũng có những ngày kỉ niệm những công lao của những con người. Là con cháu Lạc Hồng, ai mà không nhớ đến ngày mùng mười tháng ba âm lịch, ngày giỗ tổ Hùng Vương – dịp để con cháu người Việt Nam chúng ta đến thắp những nén hương tưởng niệm, bày tỏ lòng biết ơn, thành kính. Ngày 8 tháng 3, ngày Quốc tế Phụ nữ, ta nhớ đến những người bà, người mẹ, người chị, người phụ nữ thầm lặng mà cao đẹp. Tuổi học trò ngây thơ, trao cho cô một cánh hoa hồng nhân 20/11… Trong khi cả thế giới hướng về lòng biết ơn như một điều gì thiêng liêng, lẽ nào bản thân lại đi ngược lại những gì đã trở thành đạo lý, lại không mảy may biết ơn một chút nào?

Biết bao điều để ta đặt vào đó lòng biết ơn, với người đã nhắc mình quên chưa gạt chân chống xe, với người đã mang cho mình một niềm vui, một lời an ủi,… Có khi chỉ đơn giản như thế thôi, lòng biết ơn như một thứ xúc cảm nhẹ nhàng, một mối lâng lâng trong lòng không chỉ là sự cảm kích đơn thuần vì người ta đã giúp đỡ mình mà còn là niềm vui khó tả rằng thì ra trên đời còn biết bao điều tốt, người tốt, là sự thúc giục bản thân cũng hãy giúp đỡ những người xung quanh, hãy làm một điều gì tốt đẹp để lòng thấy thỏa và thấy xứng đáng với niềm biết ơn kia. Sống với tấm lòng và trái tim luôn biết ơn người khác, đó là khởi nguồn nuôi dưỡng của biết bao đức tính tốt đẹp. Và biểu hiện cao nhất của lòng biết ơn là ở chỗ, không phải ngồi nhớ mãi hay tưởng niệm suông về những người đã giúp đỡ mình mà là tạo thêm cơ hội cho lòng biết ơn, nói cách khác là tạo ơn thật nhiều. Tạo ơn cũng chẳng phải để người khác biết ơn mình, để được cảm kích, được biết đến mà cốt để biết ơn cuộc sống đã cho ta cơ hội tạo ơn và biết ơn…

Song nếu như con người không có lòng biết ơn, nếu như phải sống trong xã hội mà không ai mảy may nghĩ đến những điều tốt đã làm thì không chỉ đơn giản là sự bần cùng trong tâm hồn như Amburgh đã nói mà còn là sự lạnh lùng, vô cảm giữa xã hội người, sự kết nối mất chân thành của mối quan hệ người – người. Nhưng thật đáng buồn khi càng ngày, cái “nếu như” ấy càng trở thành sự thật. Những con người “ăn cháo đá bát” không còn chỉ xuất hiện trong những câu chuyện cổ tích như Lý Thông bội bạc Thạch Sanh nữa mà đã hóa đời thật, khiến ta giật mình trước những bài báo con giết cha để lấy tiền đi chơi, trước những hành động lật lọng vô tình đáng phê phán…

Lòng biết ơn, là câu chuyện của cảm xúc, của tình người hay là câu chuyện của làm người, của tình người?

Nghị luận về lòng biết ơn – Mẫu 3

“Đền ơn đáp nghĩa” vốn là một nghĩa cử đẹp trong văn hóa ứng xử của người Việt Nam. Lòng biết ơn từ lâu đã được coi là một truyền thống đạo đức cần được gìn giữ và phát huy.

Ông cha ta xưa có câu “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” là một lời nhắc nhở cho con cháu phải biết sống có trước có sau, biết ơn những người đã giúp đỡ mình. Không phải tự nhiên mà chúng ta có được cuộc sống ấm no, đầy đủ như hiện tại. Đó là thành quả của nhiều người đã vất vả làm nên. Bố mẹ không quản khó khăn, chăm lo, nuôi dưỡng chúng ta nên người. Thầy cô ngày ngày đứng trên bục giảng, tận tâm truyền tải kiến thức tới học sinh… Và còn rất nhiều người đã và đang hy sinh thầm lặng, ngày đêm miệt mài lao động để đem lại cuộc sống yên bình, ấm no trên mảnh đất quê hương.

Là “người ăn quả” của ngày hôm nay, ta cần có ý thức bảo vệ và phát huy những thành quả đạt được trở nên ngày một đơm hoa kết trái. Trong gia đình, ta cần làm tròn bổn phận là một người con: hiếu thảo với cha mẹ, kính trọng ông bà, nhường nhịn các em nhỏ… Ở trường, bản thân cần phải là một học sinh gương mẫu, nỗ lực học tập để không phụ công ơn giảng dạy của thầy cô, chăm lo nuôi dưỡng của bố mẹ. Bên cạnh đó, chúng ta cần phải có ý thức rèn luyện bản thân sống có đạo đức, văn minh, tránh xa các tệ nạn xã hội, thói hư tật xấu vẫn đang còn tồn tại hiện nay. Làm được như vậy là ta đã thể hiện lòng biết ơn đối với những người đã giúp ta có được cuộc sống tươi đẹp như ngày hôm nay.

Thế hệ trẻ hôm nay là những chủ nhân tương lai của đất nước. Lòng biết ơn là đạo lý muôn đời, là những người tiếp nối các thế hệ đi trước, chúng ta cần có những hành động cụ thể để đạo lý này vẫn mãi được duy trì và truyền lại cho mai sau.

….

Nghị luận về lòng biết ơn đầy đủ

Nghị luận về lòng biết ơn – Mẫu 1

Một ngày nọ, ta thấy cuộc sống của mình tươi đẹp biết bao, thấy mọi người xung quanh thật đáng mến và tốt bụng. Khi ta thấy ta đang được nhận quá nhiều, lúc đó là lúc, ta thấy mình cần phải biết ơn.

Mọi người định nghĩa thế nào là biết ơn? Đó đơn giản chỉ là một lời cảm ơn của một cậu bé khi được người lớn cho một chiếc bánh, là giọt nước mắt và sự cảm kích của những người khó khăn khi được giúp đỡ hay một nén hương để tưởng nhớ người đã khuất… Biết ơn, giản đơn chỉ là thái độ, hành động của con người với sự tích cực dành cho người đã giúp đỡ hay cho họ một điều gì đó.

Chúng ta, ngay từ khi sinh ra, đã được nhận, nhận nhiều thứ từ mọi người và cuộc đời. Là một đứa con nhận lấy bao nhiêu tình yêu thương, sự chăm sóc, lo lắng và hi sinh từ bố mẹ, gia đình. Là một công dân đất nước nhận lấy hòa bình, độc lập đánh đổi bởi bao mất mát, xương máu của những thế hệ chưa một lời từ biệt đã ngã xuống. Là một công dân toàn cầu, nhận lấy bao thành tựu khoa học, phát minh để làm tiện lợi, phát triển hơn cuộc sống của con người. Và vô vàn những món quà khác nữa ta nhận được từ cuộc đời. Và, biết ơn là thái độ tất yếu, của một con người.

Biết ơn cha mẹ, gia đình.

Cha mẹ là người cho ta sự sống này, Ngay từ giây phút chúng ta mở mắt ra nhìn cuộc đời, cất tiếng khóc đầu tiên, ta đã mang nợ cha mẹ rồi. Từng ngày lớn lên trong câu hát ru của mẹ, trong lời dạy dỗ của cha, những ân huệ mà mỗi đứa con mang trong mình lại cứ lớn dần, lớn dần. Nhưng có vẻ những phận làm con lại coi đó là điều hiển nhiên: Sự sống thiêng liêng này, hình hài không bị khuyết tật và mái ấm gia đình là điều hiển nhiên họ phải nhận được. Ta thờ ơ với cha mẹ, cáu gắt với những lời quan tâm, quay mặt với những sự nhắc nhở, … Và rồi, khi ra ngoài cuộc đời, với những con người xa lạ ngoài kia, ta mới nhận ra: chỉ có cha mẹ là người yêu thương ta vô điều kiện. Không ai nhịn đói cho bạn no, không ai chịu bất hạnh cho bạn hạnh phúc, ngoài hai người họ. Không nơi nào sẵn sàng chào đón bạn, ngay cả khi bạn thất bại, ngoài căn nhà. Và thứ ta mắc nợ nhiều nhất, biết ơn nhiều nhất lại chính là cha mẹ. Bởi vậy, vẫn có những ngày “Mùng một tết cha, mùng hai tết mẹ”, những ngày của mẹ, của cha, ngày gia đình.

Biết ơn nguồn cội, những người đã giúp đỡ ta.

Cuộc sống này gây dựng nên từ nỗi đau của những gia đình tan nát, của nỗi mong mỏi mẹ chờ con, sự mòn mỏi vợ chờ chồng và lòng yêu nước của những con người “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Cuộc sống của ta được ghép lên từ những mảnh ghép của tình bạn, của tình thầy trò đã gắn bó, yêu thương và giúp đỡ ta để có một tuổi thơ trọn vẹn. Ở ngoài kia, cũng có những con người dẫu không máu mủ, ruột thịt nhưng vẫn hằng ngày tham gia vào ngày hội đỏ hiến máu, dạy học cho người khuyết tật, suất cơm miễn phí cho người nghèo, … Những con người không phải ruột thịt, thậm chí còn không quen biết vẫn yêu thương ta, giúp đỡ ta, góp phần làm nên một cuộc sống văn minh và nồng ấm tình người. Những con người ấy, hãy biết ơn. Những gì họ đã làm cho cuộc sống này, cho thế hệ này, hãy nhận nó đến thế hệ sau. Những ngày thương binh liệt sĩ, ngày nhà giáo Việt Nam, … những cuộc thiện nguyện nghĩa tình, khi biết ơn, tự nó sẽ sống mãi.

Biết ơn những khó khăn, thất bại và cả quá khứ.

Chúng ta có thể chắc chắn mình không làm sai và mọi chuyện đều diễn ra theo ý muốn của mình. Muốn thành công phải nếm mùi thất bại, muốn hạnh phúc phải trải qua khó khăn. Những nỗi đau, vấp ngã ấy, những gì không thể đánh gục bạn, sẽ làm cho bạn trở nên mạnh mẽ hơn. Và sau khi nhìn lại, ta phải biết ơn những khó khăn, thử thách và thất bại đó. Quá khứ là một phần của con người, là nền tảng của ngày mai. Không ai sống mà phủ định quá khứ. Nó đẹp đẽ, hãy biết ơn nhưng nếu nó đầy khổ đau, hãy cứ biết ơn. Vì bạn bây giờ dám nhìn vào quá khứ để trưởng thành, để khôn lớn và để chiến thắng.

Biết ơn là hạt mầm của mọi phẩm chất tốt đẹp trong con người. Biết ơn cha mẹ, người đi trước để làm “nhân”, biết ơn những vết thương đã dạy ta trưởng thành để biết mình đang “sống”, để biết quý trọng cuộc sống và thành công. Nhưng đáng buồn thay những con người vì vật chất và ích kỉ riêng mình mà “khỏi vòng cong đuôi” mà quên mất hai chữ “biết ơn”. Biết ơn để trả lại và cũng để nhận thêm cho mình. Một nụ hôn dành cho mẹ, một cái ôm cho mọi người, một nụ cười trước khó khăn, để thấy bạn đang biết ơn, để trao hạnh phúc đến mọi người.

Ta chỉ có một cuộc đời, vô nghĩa hay không, hạnh phúc hay không, hoàn toàn là thái độ của bạn đối với cuộc đời. Hãy biết ơn.

Nghị luận về lòng biết ơn – Mẫu 2

Lòng biết ơn vốn là một truyền thống văn hóa cao đẹp của dân tộc ta từ bao đời nay. Sống biết ơn thể hiện sâu sắc lối sống trọng tình trọng nghĩa, cưu mang tương trợ lẫn nhau. Sống có lòng biết ơn là lối sống cao đẹp. Biết ơn người khác là một phẩm chất cần có ở mỗi con người.

Biết ơn là ghi nhớ và trân trọng những gì có giá trị mà mình nhận được từ người khác. Lòng biết ơn là cơ sở khẳng định phẩm chất của con người.

Người có lòng biết ơn là người luôn biết ghi nhớ và trân trọng những gì người khác trao tặng hay để lại cho mình. Họ luôn biết trân trọng, gìn giữ và phát huy những giá trị ấy trong cuộc sống. Mỗi một sự giúp đỡ ý nghĩa đều khiến họ cảm động và hàm ơn.

Trong xã hội, lòng biết ơn được biểu hiện bằng những nghĩa cử cao đẹp, phù hợp với các chuẩn mực đạo lí làm người. Tục thờ cúng ông bà tổ tiên thể hiện lòng biết ơn sâu sắc của con cháu đối với các bậc sinh thành đã có công dưỡng dục chúng ta nên người. Đó là một nét đẹp văn hóa mà ít dân tộc nào trên thế giới có được.

Ngày 27/7 hằng năm, trở thành ngày lễ trọng đại tri ân các anh hùng, thương binh, liệt sĩ đã anh dũng hi sinh thân mình bảo vệ và giữ gìn độc lập chủ quyền dân tộc. Truyền thống ấy đã được duy trì và phát huy trong mấy chục năm qua và ngày càng trở nên lớn mạnh.

Chúng ta có truyền thống tôn sư trọng đạo, tôn vinh công ơn của các thầy cô giáo vào ngày 20/11. Và ngày 20/11 hằng năm trở thành dịp để các em học sinh và phụ huynh thể hiện sâu sắc lòng biết ơn những người thầy đã hết lòng giáo dục các em nên người.

Lòng biết ơn trở thành truyền thống văn hóa ăn sâu trong nhận thức của mỗi người dân Việt Nam. Truyền thống cao đẹp ấy đã biến thành hành động cụ thể, đem lại hiệu quả thiết thực trong đời sống hiện nay. Lòng biết ơn từ lâu đã trở thành chuẩn mực đạo đức của mỗi con người Việt Nam.

Không ai có thể một mình mà gây dựng nên cả thế giới. Những gì chúng ta có được hôm nay là do công sức và trí tuệ của biết bao người đã dày công sáng tạo nên. Kế thừa thành quả lao động của các thế hệ đi trước là bản chất của xã hội. Sự phát triển của xã hội loài người là tiếp nhận và phát huy các thành quả sẵn có và sáng tạo ra cái mới.

Dù chúng ta dùng tiền hay vật chất để có được nó nhưng nếu nó không được tạo ra thì dù có thật nhiều tiền ta cũng không thể có được. Bởi thế, khi được thụ hưởng một giá trị nào, ta phải biết ơn những người đã tạo ra thành quả ấy.

Lòng biết ơn là một đức tính cần có ở mỗi con người. Bởi nó là biểu hiện cao nhất của tâm hồn lối sống tình nghĩa. Nếu một người không biết ơn những gì anh ta đang có, thì anh ta cũng sẽ không có cơ hội để được biết ơn những gì sẽ nhận được. Lòng biết ơn không chỉ là đức tính vĩ đại nhất mà còn là khởi nguồn của mọi đức tính tốt đẹp khác. Chúng ta sẽ hạnh phúc hơn nếu biết ơn với những điều tích cực trong cuộc sống của mình, hơn là việc lo lắng về những gì mình không có.

Sống có lòng biết ơn thể hiện lối sống văn hóa, tình nghĩa, đoàn kết, gắn bó của con người Việt Nam. Dân tộc Việt Nam từ lâu đã xem trọng lối sống thân tình, hữu ái. Nó không những biểu hiện ở lối sống nghĩa tình mà trở thành văn hóa ứng xử của cộng đồng. Biết ơn người khác làm cho các mối quan hệ xã hội trở nên hiền hòa, ngày càng khăng khít, tốt đẹp hơn

Lòng biết ơn trở thành chuẩn mực nền tảng của đạo đức con người. Sống có lòng biết ơn là lối sống lành mạnh, tích cực, mẫu mực trong đời sống của chúng ta. Người sống có lòng biết ơn luôn được người khác yêu mến, trân trọng và giúp đỡ trong cuộc sống.

Trước hết, phải biết ơn những người đã mang lại cho mình những giá trị lợi ích. Hãy biết ơn và tôn vinh những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Biết ơn ông bà, cha mẹ, thầy cô giáo đã không quản khó nhọc nuôi dạy chúng ta nên người. Luôn biết nói lời cảm ơn khi nhận một điều tốt đẹp từ người khác.

Tích cực tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa trong xã hội. Lòng biết ơn không nên nằm ở lời nói hay thái độ mà biểu hiện thành những hành động cụ thể, thiết thực, thực sự đem lại tác động tích cực đối với xã hội.

Thường xuyên thể hiện sâu sắc lòng biết ơn của bản thân đối với những người đã tạo dựng ra các thành quả lao động trong xã hội. Tuyên dương, ca ngợi và tôn vinh kịp thời, đúng lúc những hành động tốt đẹp trong cuộc sống xung quanh mình.

Trân trọng các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể do cha ông để lại. Không ngừng bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống ấy trong thời đại mới.

Phấn đấu học tập tốt, rèn luyện nhân cách nhân phẩm trở thành người hữu ích mai này đem sức mình xây dựng quê hương đất nước.

Trong cuộc sống còn có nhiều người sống vô ơn. Họ sống cá nhân, ích kỉ, chỉ biết nhận lấy mà không biết ơn. Họ tự tách mình ra khỏi các quy luật của đời sống, tách biệt với cộng đồng,. Thậm chí là chà đạp lên các thành quả lao động do người khác để lại. Những người như thế thật đáng chê trách.

Tục ngữ ta có nhiều câu nói về sự vô ơn: “ăn cháo đá bát”; “qua cầu rút ván”; “vong ơn bội nghĩa”… Thái độ sống ấy không những thể hiện sự kém cỏi của nhân cách con người mà còn khiến họ bị người người khác xa lánh ghét bỏ.

Sống có lòng biết ơn là lối sống văn hóa, khẳng định phẩm chất cao quý của con người. Là học sinh chúng ta phải biết ơn ông bà cha mẹ, thầy cô giáo. Phấn đấu học tập và rèn luyện mình để không phụ lòng người khác đã kì vọng, mong đợi.

Đức Đạt Lai Lạt Ma đã từng nói: “Các gốc rễ của tất cả việc tốt đến từ nguồn gốc của sự hiểu rõ giá trị của lòng tốt”. Hiểu rõ và hành động để mang lại nhiều điều tốt đẹp hơn nữa trong cuộc sống là trách nhiệm của mỗi con người. Bởi vậy, sống biết ơn người khác là lối sống cao thượng cần được đề cao và tôn vinh trong cuộc sống này.

Nghị luận về lòng biết ơn – Mẫu 3

Không ai trong cuộc đời có thể vượt qua tất cả mọi thứ mà không nhờ sự động viên, sự giúp đỡ dù ít như thế nào đi chăng nữa. Và những câu cảm ơn là một hành động quý giá giúp cho mỗi chúng ta tự tin hơn. Thật vậy, lòng biết ơn luôn là một trong những điều quan trọng trong cuộc sống này, trong mỗi chúng ta lại càng như cần phải có được.

Đầu tiên để nói về lòng biết ơn thì ta phải hiểu được lòng biết ơn có nghĩa là gì? Lòng biết ơn được hiểu rằng đó chính là tình cảm biết trân trọng, ghi nhớ công ơn của người khác dành cho mình, và những người cũng đã giúp đỡ mình vượt qua cơn hoạn nạn khó khăn. Câu hỏi đặt ra đó chính là tại sao chúng ta phải có lòng biết ơn? Câu trả lời có lẽ chính là bởi vì nó thể hiện đạo đức cần có ở mỗi chúng ta. Khi biết ơn một ai đó đã giúp đỡ, họ dường như cũng đã cưu mang mình vượt qua số phận ngặt nghèo, vất vả. Lòng biết ơn như nó khiến cho con người trở nên tốt đẹp hơn trong nhân cách, cũng như là cả trong suy nghĩ của mình, giúp cho ta tin tưởng, tin yêu thêm trong cuộc sống. Có thể thấy được chính bên cạnh đó, lòng biết ơn còn là cơ sở xây dựng nên những thứ tình cảm tốt đẹp khác nữa như tình cảm bạn bè, tình yêu thương, lòng kính trọng…Và hơn hết ta cũng như phải hiểu được rằng trong một khía cạnh khác của cuộc sống.

Đặc biệt đó cũng chính là khi chúng ta thừa hưởng những thành quả tốt đẹp mà người khác mang lại cho ta, ta cần phải nhớ ơn đến người đó.Cũng ví như chính những bổn phận là con cái chúng ta phải luôn luôn nhớ ơn ba mẹ đã khổ nhọc sinh thành, nuôi nấng và dạy dỗ ta nên người. Trong mỗi chúng ta thì sự không chỉ nhớ ơn ba mẹ, mà còn phải biết ơn thầy cô – đó cũng chính là những người lái đò thầm lặng, luôn mang đến cho chúng ta những điều kỳ diệu, những điều thật là tuyệt vời của kiến thức nhân loại, những tình cảm thiêng liêng từ trường lớp. Đồng thời, chúng ta cũng phải biết rằng để ta được hưởng những thành quả của ngày hôm nay với một đất nước hòa bình, độc lập, tự do và hạnh phúc. Thật vậy, cha anh ta đã phải đổi biết bao xương máu, nước mắt để đánh đổi. Họ dường như cũng đã phải hy sinh cả tuổi thanh xuân của mình. Cho nên chính vì vậy mà những bổn phận của chúng ta là phải luôn khắc cốt ghi tâm sự hi sinh cao cả đó. Ta có thể thấy được chính trong kho tàng ca dao, tục ngữ của ông cha ta cũng đã để lại muôn vàn câu ca dao, tục ngữ thể hiện sự biết ơn trời biển vẫn còn nhắc nhớ đó chính là “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”….

Ta như cũng phải biết được chính bên cạnh những con người luôn biết ơn là những kẻ vong ơn bội nghĩa. Và ta như thấy được những con người này cuộc sống có tốt đẹp hơn một chút thì lại vội vàng quên đi cội nguồn, gốc gác của mình. Nếu như à chúng ta lại có thể quên đi những người đã mang đến cho họ cuộc sống ấm êm, hạnh phúc và sự trưởng thành. Họ dường như cũng đã quên đi người cha người mẹ, người thầy người cô của mình. Quả thực rằng đối với những kẻ không bao giờ biết ơn đã đề cập ở trên chắc chắn chính đó chính là những kẻ cần phải bị xã hội lên án, phê phán. Ta như cũng đã biết được những câu tục ngữ ca dao cũng đề cập đến vấn đề này đó chính là câu “qua cầu rút ván”, hay có trăng quên đèn”,…

Tóm lại, chúng ta cũng phải hiểu được rằng chính lòng biết ơn là phẩm chất đạo đức cao quý của con người. Biết ơn, hay đó chính là hành động đền đáp công ơn mà người khác dành cho mình là một điều nên làm bởi đó chính là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam.

Nghị luận về lòng biết ơn – Mẫu 4

Mỗi người có mặt trên trái đất này đều có một cội nguồn. Ông cha ta xưa có câu: “Uống nước nhớ nguồn” và đến tận bây giờ câu tục ngữ ấy vẫn luôn đeo đuổi ta từ khi được sinh ra. Vậy thế nào là “uống nước nhớ nguồn”?

Câu tục ngữ thật ngắn gọn nhưng hàm ý thật sâu xa. “Uống nước” là điều chúng ta làm mỗi ngày, nhưng hai chữ này bao gồm nhiều ý nghĩa khác nữa. “Uống nước” tượng trưng cho người hưởng thụ thành quả, “nhớ” nói đến một thái độ, một tấm lòng biết ơn, “nguồn” là nguồn cội, cội nguồn của tất cả những thành quả mà con người được hưởng, “nhớ nguồn” là nhắc nhở những người hưởng thụ phải biết tri ân, giữ gìn, phát huy những thành quả của người làm ra chúng. “Uống nước nhớ nguồn” có thể hiểu theo hai nghĩa đen: đây có thể là lời khuyên, khi nào uống nước thì phải nhớ nguồn, cũng là lời của ta tự nhủ mình rằng: uống những giọt nước này ta không thể quên từ đâu ta có nước để uống. Vậy “uống nước nhớ nguồn” thể hiện truyền thống đạo lý của con người Việt Nam rằng cần phải biết ơn, trân trọng những người đã làm ra thành quả cho ta hưởng đến ngày hôm nay.

Thật vậy, mọi sự vật đều có nguồn gốc. Của cải, vật chất, tinh thần đó chính là công sức do con người làm ra. Như việc bạn thưởng thức một chén cơm, bạn cảm thấy vị ngọt, nhưng với tôi chúng thật mặn, mặn vì những giọt mồ hôi, mặn vì những ngày dầm mưa dãi nắng, mặn vì họ đã bỏ biết bao công sức để làm ra những hạt gạo ngày hôm nay. Bạn có thấy không sự hy sinh xương máu của các vị anh hùng dân tộc, các chiến sĩ yêu nước vì sắc áo của dân tộc để rồi xây dựng đất nước giàu đẹp phát triển đến ngày hôm nay, tạo cho ta một tinh thần vững mạnh. Việc xây dựng đền đài, lăng tẩm không chỉ để nhớ ơn những việc mà họ đã làm cho Tổ quốc mà đó còn là sự nhắc nhở ta không bao giờ được quên nguồn gốc của mình. Nguồn gốc, nguồn cội không phải dễ có, ta cần phải biết trân trọng. Nhớ về nguồn cội thôi chưa đủ, ta cần phải biết ơn và đó là nét đẹp đạo lý làm người của con người Việt Nam. Người Việt chúng ta luôn là những người sống với lòng biết ơn, không bao giờ quên tổ tiên, nòi gióng, biết bảo vệ quê hương Tổ quốc.

“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba
Dù ai buôn bán gần xa
Nhớ ngày giỗ tổ tháng ba thì về…”

Bốn câu lục bát mà mỗi người dân trên đất nước Việt Nam này không bao giờ quên vì đó là những lời nhắc nhở con cháu “Dòng máu lạc hồng” luôn nhớ về cội nguồn của mình. Điều đó đã góp phần tạo nên nhiều phẩm chất cao quý của dân tộc, tạo nên những giá trị tinh thần cao đẹp mà trong đạo lý “uống nước nhớ nguồn” nổi lên như một truyền thống tiêu biểu và tôn vinh những người đã sinh ra mình, những người có công với làng xóm, với quê hương, đất nước. Không những thế, người Việt Nam không bao giờ quên những người người đã dạy dỗ mình. Nhờ có cha mẹ, ta đã được nuôi lớn tới ngày hôm nay, nhớ có thầy cô mà ta có đủ vốn kiến thức để vững tin bước vào cánh cửa tương lai tốt đẹp. Tất cả những điều đó là biểu hiện của một con người luôn “Ăn trái nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ người đào giếng”.

Sâu kín trong tâm hồn, chúng ta không phải là những người vô ơn. Tuy nhiên, vì đời sống máy móc, bận rộn; vì những lo lắng trong cuộc sống; có khi vì mệt mỏi, chúng ta đã không còn thì giờ suy nghĩ đến những thành quả mà họ đã tạo nên. Đó là điều mà ta cần khắc phục vì không khéo, nguồn cội sẽ đi vào quên lãng khi con người chỉ biết cuốn theo thời gian mà không ngừng nghỉ. Song, ta cần phê phán những kẻ “ăn cháo đá bát”, “có mới nới cũ”, đó là loại người lừa thầy phản bạn, bất hiếu, là một kẻ lười học, phá hoại tài sản của đất nước như việc quên đi nguồn cội mình, coi thường nguồn gốc của mình thì đó là việc đáng trách, ta cần phải loại bỏ.

Qua câu tục ngữ trên, ta càng thấy được đạo lí tốt đẹp của con người Việt Nam. Suy nghĩ đến bốn chữ ngắn ngủi trong câu tục ngữ, “Uống nước nhớ nguồn,” tôi thấy những chữ này dạy ta những bài học vô cùng quý giá trong tinh thần biết ơn. Ta cần biết trân trọng, kính trên nhường dưới, sống có tình có nghĩa. Tôi và bạn hãy cố gắng học tốt để góp phần cống hiến làm nên những thành quả cho lớp người đi sau.

Nghị luận về lòng biết ơn – Mẫu 5

Chúng ta sinh ra trên đời không ai là hoàn hảo cả. Ai rồi cũng sẽ có lúc gặp khó khăn, hoặc sai lầm… cần phải nhận sự giúp đỡ của người khác. Khi đó, chúng ta cần phải biết ơn họ, những người đã giúp đỡ, cưu mang ta lúc khó khăn hoạn nạn, đó chính là lòng biết ơn. Lòng biết ơn cũng là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta từ ngàn đời nay, cần phải được gìn giữ và phát huy.

Có một câu tục ngữ rất hay để nói về lòng biết ơn, đó chính là “Uống nước nhớ nguồn”. Đó là khuyên chúng ta nên nhớ tới cội nguồn, những người đã sinh ra ta, cho ta cuộc sống tốt đẹp với sự biết ơn sâu sắc nhất. Không ai trên đời tự nhiên mà sinh ra, ta đều có cội nguồn, có người cha, người mẹ đã sinh ra ta, nuôi ta khôn lớn. Công lao sinh thành, dưỡng dục có ý nghĩa rất to lớn với mỗi người. Và chúng ta cần phải biết ơn, tìm cách báo đáp cha mẹ đã cho chúng ta được như ngày hôm nay.

Bên cạnh đó, lòng biết ơn còn thể hiện ở khắp mọi nơi trong cuộc sống, ở bất kỳ hoàn cảnh nào, chúng ta cũng cần phải ghi nhớ và thể hiện lòng biết ơn. Đó chỉ đơn giản là khi chúng ta bưng bát cơm để ăn, chúng ta hãy nghĩ đến những người nông dân vất vả làm ra hạt gạo, mà nâng niu, trân trọng, không lãng phí thức ăn, đó đã là thể hiện lòng biết ơn của chúng ta rồi. Hơn thế nữa, chúng ta cũng cần phải biết ơn những thế hệ cha ông đi trước, những người đã hy sinh cả tuổi thanh xuân, cả mạng sống của mình để đổi lại nền hòa bình độc lập cho đất nước như ngày hôm nay.

Đó là với những thế hệ đi trước, còn trong cuộc sống hiện nay, chúng ta phải thể hiện sự biết ơn với những người đã giúp đỡ mình. Ta biết ơn cha mẹ sinh ra, thì cũng nên biết ơn thầy cô đã dạy dỗ cho ta kiến thức, dạy ta nên người. Khi trưởng thành, cũng nên biết ơn những người đã giúp đỡ ta trong công việc, cuộc sống, để có cơ hội báo đáp lòng tốt của họ. Khi chúng ta cho đi, chắc chắn sẽ nhận lại nhiều hơn như thế.

Lòng biết ơn thật đáng quý, nhưng những con người vô ơn, vô tình vô nghĩa thì thật đáng chê trách. Đặc biệt là giới trẻ ngày nay. Các em thậm chí quên mất cả công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Rồi vô tư nhận sự giúp đỡ của người khác như một lẽ hiển nhiên mà không nghĩ đến việc biết ơn và báo đáp những người đã giúp đỡ mình. Cứ như vậy, các em sẽ trở thành những con người vô cảm, sống mà không có tình yêu thương, không nhận được sự cảm thông của những người xung quanh.

Thật vậy, mỗi chúng ta dù là bất kỳ ai, ở lứa tuổi nào hay trong hoàn cảnh nào cũng cần phải có lòng biết ơn. Lòng biết ơn không tự nhiên mà có, mà xuất phát từ chính trong tâm hồn của chúng ta. Chúng ta cần phải rèn luyện để có một nhân cách tốt, và luôn biết ơn, nhớ đến nguồn cội, cũng như những người đã giúp đỡ mình.

Nghị luận về lòng biết ơn – Mẫu 6

Lòng biết ơn là một trong những đạo lý con người rất quý báu của nhân dân ta. Ông bà ta từ bao đời nay đã luôn cố gắng lưu truyền và phát huy tinh thần “ uống nước nhớ nguồn” cho biết bao thế hệ con cháu.

Lòng biết ơn là gì? Đó chính là tình cảm, sự chân thành được dành cho những người đã có công giúp đỡ, chăm sóc mình trong mọi hoàn cảnh, dù trong lúc vui vẻ hay hoạn nạn. Là một người có lòng biết ơn, nó thể hiện chúng ta là một con người biết phải trái, trước sau, biết tôn trọng những người có công. Nhờ đó sẽ giúp ta cũng tích cực hơn làm những điều tốt trong cuộc sống.

Khi đất nước ta trải qua bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, từ những ngày khai thiên lập địa cho đến ngày nay, có biết bao nhiêu người dân, anh hùng đã hi sinh thân mình để đóng góp xây dựng đất nước. Để có được cuộc sống trong thời bình, nhận được sự che chở, yên ấm của Đảng và nhà nước thì chúng ta đã phải trải qua rất nhiều mất mát. Chính vì lẽ đó, những thế hệ sau luôn được dạy dỗ cần tỏ lòng biết ơn đến những người mẹ việt nam anh hùng, đến những người lính cách mạng, đến gia đình bố mẹ của ta. Những ngày kỷ niệm như 27/7 là Ngày thương binh liệt sỹ hàng năm là một dịp quan trọng để ta hướng đến những giây phút mặc niệm về công ơn gây dựng của những người anh hùng ấy.

Lòng biết ơn còn được thể hiện trong cuộc sống đời thường. Một lời cảm ơn khi nhận được sự giúp đỡ từ người khác. Mang về những điểm mười, những lời khen để dành tặng cha mẹ là ta đã biết tỏ lòng biết ơn đến sự nuôi dưỡng giáo dục của cha mẹ thầy cô. Khi lớn lên, trưởng thành, bổn phận của con cái là phải biết chăm sóc cha mẹ lúc về già, ốm đau bệnh tật. Hay việc có thể trở thành những con người thành công, có công ăn việc làm ổn định là ta cũng cần biết ơn đến công sức truyền dạy của thầy cô. Thật vậy, ngay cả bát cơm ta ăn, chiếc áo ta mặc hàng ngày, ta cũng cần phải biết trân trọng, gìn giữ bởi công sức của những người làm ra đó thật sự rất vất vả, trải qua nhiều công đoạn mới làm nên được một sản phẩm hoàn chỉnh

Bởi vì tầm quan trọng của lòng biết ơn, giúp mọi người trở nên tốt đẹp hơn, biết cách chia sẻ giúp đỡ khi cần. Vì thế ông bà ta đã thông qua rất nhiều các câu ca dao, tục ngữ, bài thơ để truyền tải, thúc đẩy tinh thần biết ơn mọi người như câu “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” / “con ơi ghi nhớ lời này / công cha nghĩa mẹ ơn thầy chớ quên”. Việc chúng ta biết tỏ lòng biết ơn giúp gìn giữ và phát huy những truyền thống tốt đẹp, làm cho đất nước, con người có cuộc sống hạnh phúc, nhân ái hơn.

Thế nhưng, với guồng quay của cuộc sống làm cho con người ngày càng trở nên bận rộn hơn. Họ không có nhiều thời gian trò chuyện, tâm sự cùng cha mẹ. Thậm chí, khi cha mẹ về già, họ để họ sống cô đơn ở những bệnh viện, hay trại dưỡng lão mà thiếu đi hơi ấm gia đình, tình thương của con cái dành cho cha mẹ. Hay khi ta ra trường, trưởng thành, việc hỏi thăm thưa gửi với những thầy cô giáo cũ trở nên quá xa vời. Họ quên đi những người bạn, người đồng hành đã luôn ở bên quan tâm, giúp đỡ họ lúc họ khó khăn khi giờ đây, họ đã đứng trên những thành công khác. Đó là những điều mà chúng ta cần thật sự quan tâm, vì nếu không biết đến giá trị của gia đình, cội nguồn thì những truyền thống, văn hóa đất nước sẽ bị thui chột, mài mòn và biến mất. Những kẻ “qua cầu rút ván“ hay “ăn cháo đá bát” cần bị bài trừ một cách nghiêm khắc.

Lòng biết ơn là một phẩm chất đạo đức đáng quý của con người. Biết sống sao cho trọn vẹn với những người có công giúp đỡ, nuôi nấng mình, chắc chắn bạn sẽ nhận lại được những điều tốt đẹp hơn nữa trong cuộc sống.

…..

Nghị luận về lòng biết ơn cha mẹ

Con dù lớn vẫn là con của
Đi suốt đời lòng mẹ vẫn theo con.
Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi suốt đời lòng mẹ vẫn theo con.

Tình yêu của bố mẹ dành cho con bao la là thế. Từ lúc còn là bào thai nhỏ trong bụng mẹ đến khi khôn lớn nên người lúc nào bố mẹ cũng bên con. Dù có nhiều lần con không ngoan không vâng lời nhưng trong sâu thẳm đáy lòng con luôn yêu bố mẹ nhất đời.

Mẹ là người luôn bên con bế bồng chăm sóc con từng miếng ăn giấc ngủ. Con có đọc câu chuyện kể về hai chị em song sinh trước khi chào đời có rất nhiều nỗi lo lắng về cuộc sống sau này của mình sợ không được ai cho ăn cho uống che chở như khi còn trong bụng mẹ. Nhưng rồi hiển nhiên ngày đó cũng tới và cũng là ngày họ nhận ra rằng: dù cuộc đời có đầy ắp niềm vui hay đau khổ họ vẫn luôn có mẹ bên cạnh. Bàn tay mẹ chai sần vì con đôi chân mẹ cũng vì con mà trở nên gân guốc. Mẹ bỏ thời gian công sức nấu cho con những bữa cơm ngon dạy con học chở con đi học đi chơi. Thế mà đã quá nhiều lần con vô lễ với mẹ mỗi khi nhớ lại tim con như nhói đau.

Còn bố tuy vẻ bề ngoài dường như khô khan nhưng tình thương bố dành cho con sâu nặng vô cùng. Bố rất ít phạt con nhưng mỗi lần bố phạt là con biết lỗi của con rất nặng. Những lúc ấy con chỉ là một đứa trẻ dại khờ chỉ biết khóc lóc giận dỗi mỗi lần như thế chắc bố thất vọng về con lắm.

Sau những lần con vô lễ với bố mẹ con chỉ muốn bật khóc khi nhớ lại rồi con lại nghĩ: “giá như mình đã không làm thế”, “giá như”. Sao con lại không biến những điều giá như ấy thành sự thật. Bố mẹ chắc sẽ vui lắm nụ cười tươi tắn khi bạn khoe điểm 10 đỏ chói hay là lời ân hận khi bạn mắc khuyết điểm. Bố mẹ có thể hy sinh cả đời vì con và cũng không mong cầu gì cho bản thân chỉ mong cho con được lớn khôn khỏe mạnh. Những lần bố mẹ mệt nằm trên giường con lo lắm không sao ngồi yên được. Bố mẹ lo con có tính vô tâm nhưng bố mẹ à con yêu bố mẹ lắm! Con mong sao lúc này bố mẹ có thể nói với con một lời nhờ con làm một việc. Con làm việc gì cũng được chỉ mong sao bố mẹ khỏi bệnh để dạy con học hay phạt con những lúc con mắc lỗi như mọi ngày.

Mỗi người dù là ai dù ở đâu thì lòng hiếu thảo luôn có trong tim. Con người đôi khi mãi chạy theo cuộc sống vật chất dường như quên nghĩ đến cha mẹ. Nhưng khi gặp những khó khăn thất bại khi bị cuộc đời vùi dập thì nơi góc trời xa yêu dấu bỗng ta thấy nhớ và yêu bố mẹ nhiều hơn. Ngày xưa ấy mẹ đã nắm tay con đi trên con đường bé nhỏ này. Con nũng nịu bên mẹ đòi mua cho được cái kẹo cái bánh. Thế mà hôm nay tất cả còn đâu. Ngày xưa ấy bố bế con đi chơi con đã hát cho bố nghe bài hát về cả gia đình mình. Thế mà hôm nay bố đã rời xa con mãi mãi. Có những người con khi nhận ra mình vô cùng yêu thương bố mẹ thì đã quá muộn. Thế nên ngay từ khi còn có thể chúng ta hãy thể hiện lòng hiếu thảo với bố mẹ đừng để ngày mai khi bố mẹ đã ra đi.

Con có thể quên cha mẹ chứ cha mẹ không bao giờ bỏ rơi con dù con còn nhỏ hay đã trưởng thành. Bố mẹ dành cho con tình yêu thương cao cả. Con vẫn là đứa con bé bỏng của bố mẹ dù con có phạm lỗi lầm. Con có thể là một đứa con bất hiếu không biết nghĩ đến bố mẹ nhưng con nhận ra rằng dường như bố mẹ vẫn thương con. Những người con bất hiếu đã từng coi thường bố mẹ bỏ rơi bố mẹ lúc về già thật đáng xấu hổ.

Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng
Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày.

Để rồi một ngày nào đó bố mẹ lặng lẽ ra đi những con người ấy sẽ mang trong tim một nỗi day dứt một khoảng trống trong tâm hồn mà không có gì có thể bù đắp được.

Đối với riêng em em may mắn có một người cha yêu thương chăm sóc em từng li từng tí nhưng cha em đã mãi mãi ra đi sau một tai nạn giao thông. Hình ảnh cha lại về trong ký ức em. Cái bóng gầy gò liêu xiêu ấy in mãi trong tâm hồn em mỗi sáng cha đi bộ dắt em đến trường. Trên vai cha mang chiếc cặp vừa đi vừa hỏi em chuyện học hành. Bây giờ cha không còn nữa nhưng em vẫn cố gắng chăm ngoan học tập để không phụ lòng cha. Hình ảnh và tình thương của cha mãi mãi theo em trong suốt cuộc đời.

Cảm ơn đời đã cho em có cha và có mẹ! Cha mẹ là điểm tựa vĩnh cửu cho con trên đường đời. Từ tình yêu lòng hiếu thảo với cha mẹ con bước đầu mới hiểu về quê hương đất nước – nơi đã cưu mang tất cả con dân của tổ quốc. Hôm nay bố mẹ chăm sóc con mai kia con lớn con sẽ chăm sóc bố mẹ đền đáp bao công lao dưỡng dục của bố mẹ mà có thể muôn đời sau con không đền đáp hết như nhạc sĩ Trần Quế Sơn đã nói:

Con ra đời mẹ nhé
Con yêu mẹ nhất đời
Muôn ngàn năm sau nữa
Con cõng mẹ đi chơi.
Con mong dâng tặng bố mẹ tất cả lòng hiếu thảo của con.

]]>
Cách tính điểm Đại Học, tốt nghiệp THPT Quốc Gia năm 2023 https://0222801001.com.tw/cach-tinh-diem-dai-hoc-tot-nghiep-thpt-quoc-gia-nam-2023/ Thu, 29 Jun 2023 08:31:24 +0000 https://0222801001.com.tw/?p=5594

Sau khi kết thúc kỳ thi THPT quốc gia 2023, điều thí sinh cần quan tâm đó là cách tính điểm đại học. Hiện nay các trường đại học có rất nhiều các phương thức xét tuyển khác nhau để thí sinh có thể nâng cao khả năng đỗ đạt. Trong bài viết này, mình sẽ cập nhật và tổng hợp tất cả các cách tính điểm đại học cũng như cách tính điểm tốt nghiệp THTP 2023 theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Các thí sinh và phụ huynh cùng tham khảo nhé.

1. Cách tính điểm đại học 2023

1.1 Cách tính điểm đại học theo kết quả thi tốt nghiệp THPT quốc gia 2023

Trường hợp 1: Cách tính điểm đại học đối với các trường có ngành không có môn nhân hệ số


Điểm xét đại học = Điểm M1 + Điểm M2 + Điểm M3 + Điểm ưu tiên ( nếu có )


Chi tiết điểm đại học dành cho các trường có ngành không có môn nhân hệ số như sau:

  • Điểm M1, M2, M3 lần lượt là điểm các môn thành phần trong tổ hợp xét tuyển mà thí sinh đăng ký.
  • Điểm ưu tiên: Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo và từng trường đại học.

Ví dụ: Thí sinh A tham dự kỳ thi THPTQG với tổ hợp Khoa học tự nhiên và đạt được kết quả sau:

  • Toán: 8.5
  • Ngữ văn: 6.0
  • Ngoại ngữ: 7.0
  • Vật lý: 8.5
  • Hóa học: 9.0
  • Sinh học: 6.5
  • Điểm ưu tiên: 0.5

Thí sinh chọn tổ hợp A00 để xét tuyển đại học vào ngành X trường Y, điểm xét truyển đại học của thi sinh sẽ là tổng điểm 3 môn Toán, Vật lý, Hóa học. Kết quả bằng 26 + 0.5 = 26.5

Trường hợp 2: Cách tính điểm đại học đối với các trường có ngành có môn nhân hệ số


Điểm xét đại học ( thang điểm 30 )
= [Điểm M1 + Điểm M2 + Điểm M3 x2] x3/4 + Điểm ưu tiên (nếu có)



Điểm xét đại học ( thang điểm 40 )
= Điểm M1 + Điểm M2 + Điểm M3 x2 + Điểm ưu tiên (nếu có)


Chi tiết điểm đại học dành cho các trường có ngành không có môn nhân hệ số như sau:

  • Điểm M1, M2, M3 lần lượt là điểm các môn thành phần trong tổ hợp xét tuyển mà thí sinh đăng ký.
  • Điểm ưu tiên: Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo và từng trường đại học.
  • Nếu ngành có môn nhân hệ số, thì môn đó sẽ được nhân với hệ số tương ứng (thường là hệ số 2).
  • Tùy vào quy định của từng trường đại học, điểm xét tuyển đại học được tính theo thang điểm 40 hoặc thang điểm 30.

Ví dụ: Thí sinh A tham dự kỳ thi THPTQG với tổ hợp Khoa học xã hội và đạt được kết quả sau:

  • Toán: 6.75
  • Ngữ văn: 6.75
  • Ngoại ngữ: 7.5
  • Lịch sử: 8.5
  • Địa lí: 9.0
  • Giáo dục công dân: 6.5
  • Điểm ưu tiên: 0

Thí sinh A chọn tổ hợp D01 để xét tuyển vào ngành X trường Y, và trường quy định điểm Ngoại ngữ nhân hệ số 2.

Cách tính điểm đại học theo thang điểm 30 như sau:

  • Điểm xét tuyển = ((điểm Toán + điểm Ngữ văn + (điểm Tiếng Anh x 2)) x 3/4) + 0
  • Điểm xét tuyển = ((6.75 + 6.75 + (7.5 X 2)) x 3/4) + 0
  • Điểm xét tuyển = 21.38

1.2. Cách tính điểm đại học theo điểm học bạ THPT 2023

  • Hình thức 1: Trường đại học yêu cầu xét tổng điểm 3 môn thuộc tổ hợp xét tuyển thuộc 5 học kỳ hoặc 3 học kỳ hoặc điểm cả năm lớp 12.

Cách tính điểm đại học như sau:
Điểm xét đại học = Điểm M1 + Điểm M2 + Điểm M3 + Điểm ưu tiên (nếu có). Trong đó:

+ Điểm M1, M2, M3 là điểm trung bình các môn trong tổ hợp xét tuyển (lưu ý: Nhân 2 đối với môn có hệ số 2).

+ Điểm ưu tiên (nếu có).

Hình thức 2: Xét kết quả học tập (điểm tổng của trung bình từng môn): Đây là hình thức xét tuyển dựa trên điểm tổng kết học tập của các môn trong bảng điểm học sinh, cách tính điểm đại học như sau:
Điểm xét đại học = [Điểm M1 + Điểm M2 + Điểm M3 x2] x 3/4+ Điểm ưu tiên (nếu có). Trong đó:

+ Điểm M1, M2, M3 là điểm trung bình các môn trong tổ hợp xét tuyển (lưu ý: Nhân 2 đối với môn có hệ số 2).

+ Điểm ưu tiên (nếu có).

1.3. Cách tính điểm đại học theo bài thi đánh giá năng lực 2023

Kết quả kỳ thi đánh giá năng lực của ĐHQG Hà Nội và kỳ thi đánh giá năng lực của ĐHQG TPHCM được gần 70 trường đại học sử dụng cho phương thức xét tuyển thứ 4: Xét tuyển bằng bài thi đánh giá năng lực 2023.

  • Xét tuyển bằng điểm thi đánh giá năng lực của Đại học Quốc gia Hà Nội: Điểm quy đổi (nếu có) = Điểm thi đánh giá năng lực x 30/150. Cách tính điểm đại học bằng điểm thi đánh giá năng lực của Đại học Quốc gia Hà Nội như sau:

Cách tính điểm xét tuyển đại học như sau :
Điểm xét tuyển = điểm thi tư duy định lượng + điểm thi tư duy định tính + điểm thi khoa học


 


Quy đổi ra thang điểm 30 theo công thức sau:

Điểm quy đổi = Tổng điểm bài thi đánh giá năng lực x30/150


 


Ví dụ : Điểm bài thi đánh giá năng lực của thí sinh lần lượt là : điểm bài thi định lượng 45, bài thi định tính 40,bài thi khoa học 35

Điểm xét tuyển sẽ là 45+40+35 = 120.
Điểm quy đổi là 120×30/150=24.


  • Xét tuyển bằng điểm thi đánh giá năng lực của Đại học Quốc gia TP HCM: Điểm quy đổi (nếu có) = Điểm thi đánh giá năng lực x 30/1200. Cách tính điểm đại học bằng điểm thi đánh giá năng lực của Đại học Quốc gia TP HCM như sau:

Cách tính điểm xét tuyển Đại học như sau :
Điểm xét tuyển = Tổng điểm 3 phần thi + Điểm ưu tiên nếu có


 


Công thức quy về thang điểm 30 tính như sau :
Điểm quy đổi =Điểm thi đánh giá năng lực x30/120


 


Ví dụ : Thí sinh có tổng điểm 3 phần thi lần lượt là : ngôn ngữ 200 điểm, toán học tư duy 200 điểm, giải quyết vấn đề 400 điểm.
Điểm xét tuyển sẽ là 200+200+400=800 điểm.
Điểm quy đổi là 800×30/1200=20 điểm.


1.4. Cách tính điểm đại học dành cho khối trường Quân đội, Công an 2023

Để tính điểm xét tuyển vào các trường Công an từ năm 2023, thí sinh sẽ phải làm theo các bước sau:

  • Bước 1: Tính tổng điểm 3 môn theo tổ hợp xét tuyển (M1 + M2 + M3).
  • Bước 2: Thi bài thi đánh giá tuyển sinh của Bộ Công an và tính điểm bài thi này (điểm BCA).
  • Bước 3: Tính điểm xét tuyển vào trường CAND theo công thức: Điểm xét tuyển = (M1 + M2 + M3) x 2/5 + Điểm BCA x 3/5 + Điểm ưu tiên + Điểm thưởng.
  • Bước 4: Làm tròn điểm xét tuyển về thang điểm 30 và cộng điểm ưu tiên và điểm thưởng theo quy định của từng trường.

Lưu ý rằng cách tính điểm xét tuyển có thể khác nhau tùy theo từng trường Công an, vì vậy bạn cần đọc kỹ thông tin của từng trường mà bạn muốn xét tuyển để biết cách tính điểm cụ thể.

2. Cách tính điểm xét tốt nghiệp cho thí sinh THPT 2023

2.1. Điểm xét tốt nghiệp của thí sinh THPT hệ THPT

Điểm xét tốt nghiệp THPT được quy định chính thức bởi Bộ Giáo dục và Đào tạo của Việt Nam theo Nghị định số 46/2017/NĐ-CP ban hành ngày 27/4/2017. Trong khi chờ điểm xét tốt nghiệp chính thức được công bố bởi các cơ quan giáo dục, thí sinh cũng có thể tự tính điểm tốt nghiệp THPT của mình bằng cách sử dụng công thức được quy định bởi Bộ Giáo dục và Đào tạo như sau:

 

Chi tiết các thành phần điểm trong công thức được giải thích như sau:

  • Tổng điểm 4 bài thi bao gồm: Điểm Toán + Điểm Văn + Điểm Anh + Điểm trung bình của bài thi tổ hợp. Bài thi tổ hợp Khoa học tự nhiên gồm 3 môn là Vật lý, Hóa học, Sinh học. Bài thi tổ hợp Khoa học xã hội gồm 3 môn là Lịch sử, Địa lý, Giáo dục công dân.
  • Điểm trung bình cả năm lớp 12: Được tính bằng công thức (Điểm trung bình học kỳ 1 + Điểm trung bình học kỳ 2×2)/3.
  • Điểm ưu tiên bao gồm: Điểm ưu tiên đối tượng và điểm ưu tiên khu vực.
  • Điểm khuyến khích là một loại điểm được Bộ Giáo dục và Đào tạo của Việt Nam dành cho các thí sinh THPT dựa trên thành tích của trong các cuộc thi do Bộ tổ chức hoặc có thành tích nổi bật.

Ví dụ: Nếu thí sinh hệ THPT chọn bài thi tổ hợp Khoa học tự nhiên và đạt kết quả như sau:

  • Toán: 8.5
  • Ngữ văn: 6.0
  • Ngoại ngữ: 7.0
  • Vật lý: 8.5
  • Hóa học: 9.0
  • Sinh học: 6.5
  • Điểm trung bình học kỳ 1: 8.4
  • Điểm trung bình học kỳ 2: 8.7
  • Điểm ưu tiên đối tượng: 0
  • Điểm ưu tiên khu vực: 0.5
  • Điểm khuyến khích: 0

Điểm xét tốt nghiệp của thí sinh đó được tính như sau:

Tổng điểm 4 bài thi = (8.5 + 6.0 + 7.0) + (8.5 + 9.0 + 6.5)/3 = 29.5
Điểm trung bình cả năm lớp 12 = (8.4 + 8.7 x 2)/3 = 8.6
Điểm ưu tiên: 0.5
Điểm khuyến khích: 0

2.2. Điểm xét tốt nghiệp của thí sinh THPT hệ GDTX

Cách tính điểm dành cho thí sinh giáo dục thường xuyên (GDTX) sẽ có một chút khác biệt vì thí sinh diện GDTX chỉ dự thi 3 bài thi, trong đó bao gồm 2 bài thi độc lập là Toán học, Ngữ Văn và một bài thi tổ hợp tự chọn là Khoa học tự nhiên hoặc Khoa học xã hội. Ngoài ra, thí sinh GDTX có thể đăng ký dự thi bài thi Ngoại Ngữ để lấy kết quả xét tuyển vào các trường đại học (nếu điểm ngoại ngữ nằm trong phương thức xét tuyển của sĩ tử). Tuy nhiên, điểm số của bài thi Ngoại ngữ sẽ không được tính vào điểm tổng kết kỳ thi THPTQG hay điểm xét tuyển tốt nghiệp THPT hệ GDTX.

Chi tiết các thành phần điểm trong công thức được giải thích như sau:

  • Tổng điểm 3 bài thi bao gồm: Điểm Toán + Điểm Văn + Điểm trung bình của bài thi tổ hợp. Bài thi tổ hợp Khoa học tự nhiên gồm 3 môn là Vật lý, Hóa học, Sinh học. Bài thi tổ hợp Khoa học xã hội gồm 3 môn là Lịch sử, Địa lý, Giáo dục công dân.
  • Điểm trung bình cả năm lớp 12: Được tính bằng công thức (Điểm trung bình học kỳ 1 + Điểm trung bình học kỳ 2×2)/3.
  • Điểm ưu tiên bao gồm: Điểm ưu tiên đối tượng và điểm ưu tiên khu vực.
  • Điểm khuyến khích là một loại điểm được Bộ Giáo dục và Đào tạo của Việt Nam dành cho các thí sinh THPT dựa trên thành tích của trong các cuộc thi do Bộ tổ chức hoặc có thành tích nổi bật.

Ví dụ: Nếu thí sinh hệ GDTX chọn bài thi tổ hợp Khoa học tự nhiên và đạt kết quả như sau:

  • Toán: 8.5
  • Ngữ văn: 6.0
  • Vật lý: 8.5
  • Hóa học: 9.0
  • Sinh học: 6.5
  • Điểm trung bình học kỳ 1: 8.4
  • Điểm trung bình học kỳ 2: 8.7
  • Điểm ưu tiên đối tượng: 0
  • Điểm ưu tiên khu vực: 0.5
  • Điểm khuyến khích: 1

Điểm xét tốt nghiệp của thí sinh đó được tính như sau:

  • Tổng điểm 4 bài thi = (8.5 + 6.0) + (8.5 + 9.0 + 6.5)/3 = 22.5
  • Điểm trung bình cả năm lớp 12 = (8.4 + 8.7 x 2)/3 = 8.6
  • Điểm ưu tiên: 0.5
  • Điểm khuyến khích: 1

Lưu ý: Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, nếu một thí sinh có nhiều loại giấy chứng nhận để được cộng điểm khuyến khích thì điểm số tối đa mà thí sinh có thể nhận được là 4.0 điểm. Việc này được áp dụng để tránh tình trạng một số thí sinh được cộng quá nhiều điểm khuyến khích do giành được nhiều giải thưởng trong các cuộc thi, dẫn đến việc chênh lệch điểm số giữa các thí sinh không công bằng.

2.3. Thí sinh muốn được xét và công nhận tốt nghiệp THPT 2023 cần đáp ứng điều kiện nào?

Thí sinh phải đáp ứng được các điều kiện để được xét và công nhận tốt nghiệp THPT 2023 theo Điều 42 Quy chế ban hành kèm theo Thông tư 15/2020/TT-BGDĐT như sau:

  • Đã hoàn thành chương trình trung học phổ thông (THPT) với đầy đủ các môn học của khối thi đang đăng ký.
  • Đã đăng ký dự thi, hoàn thành các thủ tục đăng ký dự thi, không vi phạm các quy định về quy chế thi và kỷ luật thi theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo đối với kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc gia năm 2023.
  • Thí sinh cần đạt kết quả tối thiểu theo quy định trong các kỳ thi THPT quốc gia, bao gồm các môn: Ngữ văn, Toán, Ngoại ngữ và một môn tự chọn (theo khối thi của mình).
  • Thí sinh cần phải đáp ứng đủ các điều kiện về học tập, bao gồm: đạt đủ số tiết học theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tham gia đầy đủ các hoạt động của trường, không bị kỷ luật trong năm học, kết quả đánh giá học tập tại trường đạt trung bình trở lên.

Nếu thí sinh không đáp ứng đủ các điều kiện về học tập trên, theo quy định của Bộ giáo dục sẽ có những quyết định không được xét tốt nghiệp THPT và phải tiếp tục học tập để đáp ứng các điều kiện này trong các năm học tiếp theo cho từng trường hợp.

3. Những thắc mắc xoay quanh điểm thi tốt nghiệp THPT quốc gia 2023

3.1. Khi nào được phúc khảo bài thi tốt nghiệp THPT quốc gia 2023?

Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, để phúc khảo bài thi tốt nghiệp THPT 2023, thí sinh cần đáp ứng các điều kiện sau:

  • Đã hoàn thành các thủ tục đăng ký dự thi tốt nghiệp THPT năm 2023 và đã có kết quả thi tốt nghiệp.
  • Có đầy đủ cơ sở lý do và chứng cứ để yêu cầu phúc khảo bài thi, bao gồm:
    + Có bằng chứng về việc sai sót trong quá trình chấm thi. Ví dụ: bài thi không được chấm đúng theo đáp án, bài thi của thí sinh bị thiếu điểm, bài thi bị nhầm lẫn với bài thi của thí sinh khác,…

+ Có bằng chứng về việc thí sinh bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khách quan như bệnh tật, tai nạn, hoặc các tình huống khẩn cấp khác trong quá trình làm bài.

  • Thực hiện đầy đủ các thủ tục liên quan đến phúc khảo bài thi, bao gồm:

+ Nộp đơn yêu cầu phúc khảo bài thi tới Sở Giáo dục và Đào tạo của địa phương trong vòng 3 ngày làm việc kể từ ngày công bố kết quả thi.

+ Nộp lệ phí phúc khảo bài thi theo quy định.

+ Tuân thủ các quy định về thời gian và phương thức phúc khảo bài thi của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

  • Thí sinh chỉ được phúc khảo một lần duy nhất và điểm phúc khảo chính là điểm thi cuối cùng được công nhận cho thí sinh.

Những thí sinh đáp ứng đủ các điều kiện trên và được cơ quan chức năng xác nhận có cơ sở lý do để yêu cầu phúc khảo bài thi sẽ được phép phúc khảo bài thi. Sau khi phúc khảo, điểm số của thí sinh có thể được điều chỉnh hoặc giữ nguyên tùy thuộc vào kết quả phúc khảo.

3.2. Điểm cộng ưu tiên khi xét tuyển đại học được tính như thế nào?

Điểm cộng ưu tiên khi xét tuyển Đại học là điểm được cộng thêm vào điểm xét tuyển của thí sinh để đảm bảo quyền lợi cho các đối tượng ưu tiên trong tuyển sinh Đại học. Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, điểm cộng ưu tiên khi xét tuyển Đại học được quy định như sau:

– Đối tượng ưu tiên: Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, các đối tượng ưu tiên khi xét tuyển vào các trường Đại học bao gồm:

  • Thí sinh là con của thương binh, liệt sỹ.
  • Thí sinh là con của người có công với cách mạng, con liệt sỹ, con liệt sỹ mất tích, con của thương binh, bệnh binh.
  • Thí sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn đặc biệt.

Điểm cộng ưu tiên cho đối tượng ưu tiên được quy định từ 0,75 đến 2 điểm, tùy thuộc vào quy định của từng trường Đại học. Điểm cộng ưu tiên này sẽ được cộng vào điểm tổng khi tính điểm xét tuyển. Thí sinh trong nhóm đối tượng ưu tiên này cần cung cấp các giấy tờ, chứng từ và giấy xác nhận của các cơ quan có thẩm quyền để được xác định là đối tượng ưu tiên. Nếu thí sinh không đáp ứng được các điều kiện được quy định cho đối tượng ưu tiên thì sẽ không được cộng điểm ưu tiên này khi tính điểm xét tuyển.

– Khu vực ưu tiên: Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, khu vực ưu tiên khi xét tuyển vào các trường Đại học được chia thành các khu vực sau:

Khu vực 1 (KV1): Theo quy định hiện hành, thí sinh thuộc khu vực 1 (KV1) sẽ được cộng điểm 0,75 nếu học tại các xã thuộc vùng dân tộc và miền núi theo quy định tương ứng với thời gian học THPT hoặc trung cấp của thí sinh. Ngoài ra, các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo; các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu vào diện đầu tư của Chương trình 135 theo quy định của Thủ tướng Chính phủ cũng được tính vào khu vực 1.
Khu vực 2 (KV2): Các thí sinh thuộc các thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh; các thị xã, huyện ngoại thành của thành phố trực thuộc trung ương (trừ các xã thuộc KV1) được cộng 0,25 điểm.
Khu vực 2 nông thôn (KV2-NT): Thí sinh thuộc các địa phương không thuộc KV1, KV2, KV3 được cộng 0,5 điểm.
Khu vực 3: Không được công điểm ưu tiên gồm các khu vực là quận nội thành của thành phố trực thuộc trung ương.

3.3. Điểm IELTS được quy đổi sang điểm đại học như thế nào?

Để quy đổi điểm IELTS sang điểm thi Đại học, trước hết cần lưu ý rằng các trường Đại học có thể có quy định khác nhau về việc quy đổi điểm IELTS sang điểm thi Đại học. Tuy nhiên, thông thường thì các trường sẽ sử dụng bảng quy đổi điểm IELTS dưới đây để tính điểm thi Đại học tương ứng:

  • Nếu điểm IELTS từ 9.0 đến 8.5: 9.0 điểm thi Đại học
  • Nếu điểm IELTS từ 8.0 đến 7.5: 8.5 điểm thi Đại học
  • Nếu điểm IELTS từ 7.0 đến 6.5: 8.0 điểm thi Đại học
  • Nếu điểm IELTS từ 6.0 đến 5.5: 7.0 điểm thi Đại học
  • Nếu điểm IELTS từ 5.0 đến 4.5: 6.0 điểm thi Đại học
  • Nếu điểm IELTS từ 4.0 đến 3.5: 5.0 điểm thi Đại học

Thí sinh cần lưu ý rằng điểm IELTS chỉ có giá trị trong khoảng thời gian nhất định, do đó, nếu thí sinh sử dụng điểm IELTS để xét tuyển vào trường Đại học, thì cần kiểm tra kỹ quy định của trường để biết điểm IELTS có còn có giá trị hay không, và trong bao lâu.

Trên đây là cách tính điểm đại học cũng như cách tính điểm tốt nghiệp THTP 2023 mà mình đã cập nhật và tổng hợp được. Các thông tin này có thể được điều chỉnh theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Việc tìm hiểu và nắm rõ các điều kiện, quy định và quy trình xét tuyển là rất quan trọng để các thí sinh có thể chuẩn bị tốt nhất cho kỳ thi đại học và nâng cao cơ hội đỗ vào trường mong muốn.

]]>
Cho vài giọt phenolphtalein vào dung dịch NH3 thì dung dịch chuyển thành ? https://0222801001.com.tw/cho-vai-giot-phenolphtalein-vao-dung-dich-nh3-thi-dung-dich-chuyen-thanh/ Sun, 20 Nov 2022 07:22:00 +0000 https://0222801001.com.tw/?p=4796 Câu hỏi: Cho vài giọt phenolphtalein vào dung dịch NH3 thì dung dịch chuyển thành?

A. Màu xanh

B. Màu cam

C. Màu hồng

D. Màu vàng

Đáp án đúng : C

]]>
Muối NH4Cl tác dụng được với dung dịch chất nào sau đây? https://0222801001.com.tw/muoi-nh4cl-tac-dung-duoc-voi-dung-dich-chat-nao-sau-day/ Sun, 20 Nov 2022 07:12:07 +0000 https://0222801001.com.tw/?p=4784

Câu hỏi : Muối NH4Cl tác dụng được với dung dịch chất nào sau đây?

Lời giải :

Đáp án A

Phương trình hóa học: Ca(OH)2+ 2NH4Cl→ CaCl2+ 2NH3+ 2H2O

 

]]>
Hướng dẫn cách cho phép người tham gia cuộc họp đã từng bị kick, tham gia trở lại trong zoom https://0222801001.com.tw/huong-dan-cach-cho-phep-nguoi-tham-gia-cuoc-hop-da-tung-bi-kick-tham-gia-tro-lai-trong-zoom/ Tue, 05 Oct 2021 07:30:51 +0000 https://0222801001.com.tw/?p=2089 Hướng dẫn cách cho phép người tham gia cuộc họp đã từng bị kick, tham gia trở lại trong zoom.

Lưu ý : Chỉ có người chủ trì cuộc họp mới làm được, người tham gia cuộc họp không thể tự cho phép bản thân tham gia lại phòng họp được.

Cho phép người tham gia đã bị xóa tham gia trở lại cuộc họp.

Bước 1 : Nếu bạn là người chủ trì cuộc họp thì đầu tiên hãy đăng nhập vào cổng web zoom.

Bước 2 : Ở menu bên trái hãy chọn cài đặt

Bước 3 : Chọn Tab cuộc họp sau đó hãy kéo xuống dưới và tìm mục cho phép những người tham gia bị xóa tham gia lại, hiện tại cái nút nó đang hình màu xám và bạn chỉ cần bật nó lên để nó chuyển sang màu xanh là thành công nha.

 

]]>
Hướng dẫn cách đổi phông nền Google Meet để khai giảng trực tuyến https://0222801001.com.tw/huong-dan-cach-doi-phong-nen-google-meet-de-khai-giang-truc-tuyen/ Sat, 04 Sep 2021 09:22:36 +0000 https://0222801001.com.tw/?p=1854 Do tình hình hiện tại dịch Covid 19 đang diễn biến phực tạp nên các em học sinh sẽ khai giảng trực tuyến qua các ứng dụng Google Meet, Zoom, Zavi,…

Hôm nay mình sẽ hướng dẫn các bạn thay đổi hình nền để buổi khai giảng trực tuyến được trang trọng.

I. Hướng dẫn thay hình nền Google Meet

Bước 1: Truy cập vào đường dẫn cuộc họp Google Meet các thầy cô đã tạo

Mở Google Meet trên máy tính tại phòng họp trực tuyến nhấn vào nút 3 chấm như hình

Bước 2: Chọn hình nền cần thay đổi trên Google Meet

Chúng ta tiến hành thay đổi hình nền:

Ngôn ngữ tiếng Việt: Thay đổi nền

Ngôn ngữ tiếng Anh: Change background

Thay đổi hình nền Google Meet để khai giảng trực tuyến

Bước 3: Tải ảnh nền vào ứng dụng Google Meet

Ngôn ngữ tiếng Việt: Dùng hình ảnh có trong ổ đĩa

Ngôn ngữ tiếng Anh: Use image from disk

II. Hướng dẫn sửa lỗi bị hiện ngược chữ trong Google Meet

Có hai tiện ích Google Chrome để khắc phục lỗi bị ngược trang sách, lỗi ngược chữ, ngược hình ảnh trong Google Meet là:

Google Meet Mirror / Flip Camera Video Mirror

Trong bài hướng dẫn mình sẽ hướng dẫn cách cài Video Mirror

  • Link tải Google Meet Mirror

  • Link tải Video Mirror

Bước 1: Vào trình duyệt Google Chrome hoặc Cốc cốc tải addon VideoMirror

Bước 2: Tiến hành cài đặt Video Mirror

Nhấn Thêm vào Chrome (1) -> Thêm tiện ích

Bước 3: Ghim tiện ích Video Mirror lên trình duyệt

  • Click chuột trái vào biểu tượng hình như (2)
  • Nhấn Ghim (3)

  • Bật Video Mirror ở (4)

Vậy là chúng ta đã khắc phục được ngược chữ trong Google Meet. Chúc quý thầy cô một năm học mới nhiều điều thú vị mới!

]]>
Cách biến điện thoại thành webcam máy tính khi học trực tuyến https://0222801001.com.tw/cach-bien-dien-thoai-thanh-webcam-may-tinh-khi-hoc-truc-tuyen/ Sat, 04 Sep 2021 04:36:43 +0000 https://0222801001.com.tw/?p=1847

Theo Kỷ nguyên Số

]]>